Đánh giá hiệu quả của can thiệp thay đổi lối sống ở bệnh nhân tiền đái tháo đường

ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CỦA CAN THIỆP THAY ĐỔI LỐI SỐNG

Ở BỆNH NHÂN TIỀN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG

ThS.Tường Thị Vân Anh, PGS.TS. Đỗ Trung Quân.

Đại học Y Hà Nội

ABSTRACT

Effects of lifestyle intervention in reventing NIDDM in people with impaired glucose tolerance

Background: Individuals with impaired glucose tolerance (IGT) have a high risk of developing NIDDM. The purpose of this study was to determine whether 6-month lifestyle intervention program improves glucose tolerance in people with prediabetes (impaired glucose tolerance and/or impaired fast glucose). Research design and methods: From March 2013 to September 2016, 1145 men and women of 30 – 69 years old from Bach Mai and Huu Nghi Hospital were screen for IGT. 62 subjects were randomized into a clinical trial, lifestyle modification (diet and exercise). Follow-up evaluation examinations were conducted over a 6-month period to compare the mean levels of BMI, blood glucose, HbA1c and lipid at 6 month to those at baseline. Compare means analysis was used to determine if the difference of mean level is significant. Results: Mean levels of BMI, blood glucose, HbA1c and lipid at 6 month were lower as compared to those at baseline, but no significant difference were found, except total cholesterol (4,54 ± 1,98 vs 5,12 ± 0,93; p = 0,01). The incidence of newly diagnosed diabetes was 17.7%, of normoglycaemia was 9.8%. Conclusions: Diet and exercise interventions over a 6-month period among those with prediabetes led to a significant decrease in the total cholesterol but no significant decrease in the mean levels of BMI, blood glucose, HbA1c.

Keywords: Prediabetes, IGT, IFG, blood glucose.

Chịu trách nhiệm chính: Tường Thị Vân Anh

Ngày nhận bài: 17.9.2016

Ngày phản biện khoa học: 7.10.2016

Ngày duyệt bài: 15.10.2016

TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Những người Tiền ĐTĐ có nguy cơ cao tiến triển thành ĐTĐ typ 2. Mục tiêu: Tìm hiểu vai trò phòng ngừa ĐTĐ typ 2 của thay đổi lối sống tích cực ở những người tiền đái tháo đường.Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Tiến cứu có can thiệp 62 người được chẩn đoán Tiền ĐTĐ tham gia chương trình kiểm soát lối sống (đưa cân nặng về mức BMI lý tưởng, tăng cường vận động thể lực, điều chỉnh chế độ ăn hợp lý) trong thời gian trung bình 6,4 ± 1,6 tháng. So sánh các chỉ số đường máu, HbA1c, lipid máu, BMI… tại thời điểm trước và sau 6 tháng can thiệp. Đánh giá tỷ lệ ĐTĐ mới được chẩn đoán, tỷ lệ người có đường máu chuyển về mức bình thường sau 6 tháng. Kết quả nghiên cứu: So với thời điểm trước can thiệp, sau 6 tháng chỉ số Cholesterol máu giảm có ý nghĩa thống kê (5,12 ± 0,93 so với 4,54 ± 1,98, p =0,01), ngoài ra các chỉ số khác (đường máu, HbA1c, Triglycerid, BMI…) đều giảm nhưng sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Tỷ lệ ĐTĐ mới được chẩn đoán 17,7%; và tỷ lệ đường máu trở về mức bình thường là 9,8%. Kết luận: Kiểm soát lối sống một cách tích cực hơn đã làm giảm đã làm giảm có ý nghĩa chỉ số lipid máu và cải thiện mức đường máu, tuy nhiên sự thay đổi này chưa thực sự khả quan; tỷ lệ ĐTĐ xuất hiện mới sau 6 tháng khá cao.

Từ khóa: Tiền đái tháo đường, thay đổi lối sống.

I. ĐẶT VẤN ĐỀ

Tỷ lệ đái tháo đường typ 2  (ĐTĐ) ngày càng tăng lên trên phạm vi toàn cầu, ước tính tỷ lệ ĐTĐ hiện nay trên thế giới khoảng 415 triệu người [1]. Những người mắc rối loạn dung nạp glucose (RLDNG) có nhiều nguy cơ mắc ĐTĐ typ 2 và các biến chứng của tăng đường máu. Tăng đường máu mạn tính là điều kiện cần để gây ra các biến chứng mạch máu nhỏ như cầu thận hay võng mạc, và hơn thế nữa, gần đây, tăng đường máu đã được chứng minh là một yếu tố nguy cơ độc lập cho các bệnh lý tim mạch [2, 3]. Khi những triệu chứng đầu tiên của bệnh ĐTĐ xuất hiện trên lâm sàng thì bệnh ĐTĐ đã có một quá trình diễn biến bệnh từ một thời gian dài trước đó và ước tính lúc đó khoảng 50% chức năng của tế bào beta đã bị mất đi [4, 5].

Mặc dù yếu tố nguyên nhân về gen ở những bệnh nhân ĐTĐ typ 2 này chưa được khẳng định chắc chắn, tuy nhiên nhiều bằng chứng đã cho thấy lối sống ít vận động cộng với thừa cân, béo phì là những yếu tố gây bệnh ĐTĐ typ 2 [6]. Không còn nghi ngờ gì nữa, bằng cách kiểm soát lối sống một cách tích cực (giảm cân, tăng cường vận động thể lực, thay đổi chế độ ăn hợp lý) là phương thức hữu hiệu để ngăn ngừa ĐTĐ tiến triển cũng như các biến chứng do ĐTĐ, và điều này cũng đã được chứng minh trong nhiều nghiên cứu trên thế giới [7-10].

Mục tiêu của nghiên cứu:

Tìm hiểu vai trò phòng ngừa ĐTĐ typ 2 của thay đổi lối sống tích cực ở những người tiền đái tháo đường.

II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Đối tượng nghiên cứu:

Bệnh nhân độ tuổi từ 30 – 69, đến khám tại khoa khám bệnh theo yêu cầu bệnh viện Bạch Mai và Khoa khám bệnh Bệnh viện Hữu Nghị, được chẩn đoán Tiền đái tháo đường (TĐTĐ).

Thời gian nghiên cứu: Tháng 3/2013 đến tháng 5/2016

Tiêu chuẩn lựa chọn: 5,6 mmol/l ≤ đường máu lúc đói ≤ 6,9 mmol/l và  7.8 mmol/l ≤ đường máu sau 120 phút làm nghiệm pháp tăng đường huyết ≤ 11 mmol/l.

Tiêu chuẩn loại trừ:

Bệnh nhân đã được chẩn đoán là ĐTĐ, suy kiệt, đang mắc các bệnh cấp tính, ác tính, mắc một số bệnh liên quan đến rối loạn chuyển hóa đường (hội chứng Cushing, …), đang mang thai, đang dùng một số thuốc ảnh hưởng đến đường huyết (corticoid, chẹn beta,…), đang điều trị thuốc hạ lipid máu, bệnh nhân không hợp tác

2.2. Phương pháp nghiên cứu:

Đây là nghiên cứu Tiến cứu có can thiệp

Bệnh nhân đến khám sức khỏe tại phòng khám, được làm các xét nghiệm máu, nước tiểu, đo các chỉ số nhân trắc: BMI, chỉ số vòng bụng/vòng hông (VB/VH), đo huyết áp, làm nghiệm pháp tăng đường huyết (NPTĐH).

NPTĐH theo tiêu chuẩn của Tổ chức y tế thế giới (TCYTTG): bệnh nhân được làm xét nghiệm đường máu lúc đói (lần 1), sau đó uống 75g đường glucose pha trong 250 ml nước uống trong vòng 5 phút; sau 120 phút làm xét nghiệm đường máu lần 2.

Những bệnh nhân đủ tiêu chuẩn sẽ tham gia nghiên cứu: Được

– Tư vấn chế độ ăn (giảm chất ngọt, chất béo bão hòa),

– Tư vấn chỉ số BMI lý tưởng, giảm cân nặng (nếu thừa cân, béo phì)

– Hướng dẫn bài tập vận động thể lực (ít nhất 30 phút/ngày và 5 ngày/tuần),

– Hẹn khám định kỳ 1- 3 tháng/lần. Tư vấn qua điện thoại.

Đánh giá tại thời điểm sau 6 tháng:

– So sánh các chỉ số đường máu, HbA1c, lipid máu, BMI, VB/VH, huyết áp trước và sau nghiên cứu.

  • Tỷ lệ ĐTĐ mới được chẩn đoán; tỷ lệ đường máu chuyển về mức bình thường

Bệnh nhân được chẩn đoán là ĐTĐ khi đường máu lúc đói ≥ 7 mmol/l hoặc đường máu sau làm NPTĐH ≥ 11.1 mmol/l. Đường máu được xác định là bình thường khi đường máu lúc đói < 5,6 mmol/l và đường máu 2h sau làm NPTĐH < 7,8 mmol/l.

Xử lý số liệu: Dùng phần mềm SPSS 12.0, dùng test so sánh trung bình từng cặp (compare means) để so sánh trung bình trước và sau nghiên cứu

III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

3.1. Một số đặc điểm của nhóm nghiên cứu

Có 62 bệnh nhân theo dõi trong thời gian trung bình 6,4 ± 1,6 tháng. Độ tuổi trung bình 55,8 ± 7,1.

Bảng 1: Một số đặc điểm của nhóm nghiên cứu

Bảng 1 cho thấy đa số các đối tượng trong nhóm nghiên cứu có trình độ học vấn từ mức trung học phổ thông trở lên (71%), chỉ có 9,7% có trình độ ở mức tiểu học. 16% những

phụ nữ mắc TĐTĐ có tiền sử sinh con trên 4 kg.

3.2. So sánh một số chỉ số trước và sau can thiệp

Bảng 2: Một số kết quả trước và sau can thiệp của nhóm nghiên cứu

Bảng 2 cho thấy, sau 6 tháng áp dụng can thiệp bằng biện pháp thay đổi lối sống, trong tổng số 62 người đã có 11 người ĐTĐ mới được chẩn đoán, tỷ lệ 17,7% và 6 người có đường máu trở về mức bình thường, chiếm tỷ lệ 9,8%

Biểu đồ 1: Chỉ số đường máu trước và sau can thiệp

So với trước can thiệp, đường máu tại thời điểm 6 tháng đã giảm hơn, tuy nhiên sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê


Biểu đồ 2: Chỉ số HbA1c trước và sau can thiệp

Chỉ số HbA1c sau can thiệp đã giảm nhưng sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê

Biểu đồ 3: Nồng độ lipid máu trước và sau can thiệp

Sau 6 tháng can thiệp, chỉ có nồng độ Cholesterol giảm có nghĩa thống kê, p = 0.01.

IV. BÀN LUẬN

Các chuyên gia trên thế giới đã đưa ra nhiều bằng chứng từ các nghiên cứu cho thấy vai trò của can thiệp thay đổi lối sống trong phòng ngừa ĐTĐ typ 2 ở những người nguy cơ cao. Theo các nghiên cứu này, bằng chế độ tập luyện, ăn kiêng, bên cạnh việc giảm có ý nghĩa các chỉ số BMI, chỉ số lipid máu thì các chỉ số đường máu cũng như HbA1c đã giảm đáng kể.

Hiệu quả bảo vệ ĐTĐ cũng như tiền ĐTĐ của tập luyện thể lực, thay đổi chế độ ăn cũng đã được chứng minh trong một vài nghiên cứu trong nước với đối tượng nghiên cứu là những người có đường máu bình thường trong cộng đồng, kết quả cho thấy can thiệp thay đổi lối sống đã làm giảm 60% nguy cơ mắc ĐTĐ [11] và hiệu lực bảo vệ của chương trình can thiệp đối với TĐTĐ là 20,7% [12].

Tuy nhiên kết quả nghiên cứu của chúng tôi không tương đồng với đa số kết quả của các nghiên cứu trên thế giới, trừ nghiên cứu của các tác giả Ba Lan [13]. Mặc dù các chỉ số đường máu lúc đói, đường máu sau NPTĐH và chỉ số BMI đều giảm so với thời điểm trước can thiệp, nhưng sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê. Các chỉ số lipid máu cũng thay đổi nhưng chỉ có chỉ số Cholesterol máu giảm có ý nghĩa thống kê.

Việc thay đổi lối sống, thay đổi hành vi

đối với mỗi cá nhân cần phải có một quá trình và cần phải có quyết tâm cao. Các đối tượng của chúng tôi mặc dù đã được tư vấn tại thời điểm bắt đầu nghiên cứu, tư vấn qua điện thoại mỗi khi bệnh nhân có yêu cầu, tư vấn định kỳ 1-3 tháng khi tái khám nhưng sự tuân thủ điều trị của nhóm đối tượng của chúng tôi chưa được tốt. Hơn thế nữa hiệu quả thay đổi của phương pháp thay đổi lối sống thường chậm hơn so với can thiệp bằng thuốc, cần phải có thời gian nhất định. Nghiên cứu của chúng tôi đánh giá kết quả tại thời điểm 6 tháng, trong khi đó, các nghiên cứu của các tác giả nước ngoài được tiến hành trong khoảng thời gian theo dõi trung bình 2- 6 năm, cá biệt có nghiên cứu DPP (Hoa kỳ) đã báo cáo số liệu sau 10 năm nghiên cứu. Tuy nhiên, mới qua thời gian can thiệp trung bình là 6,4 tháng nhưng kết quả cũng đã cho thấy sự khác biệt, mặc dù không có ý nghĩa thống kê, chúng tôi hy vọng vào kết quả quả sẽ khả quan hơn trong thời gian theo dõi tiếp theo.

Ngoài ra, đối tượng trong nghiên cứu của chúng tôi bao gồm những người có chỉ số cân nặng bình thường, không giống như các nghiên cứu nước ngoài, đối tượng nghiên cứu là những người thừa cân, béo phì, nên khi áp dụng chế dộ giảm cân họ đã đạt được những thay đổi ngoạn mục về các chỉ tiêu đường máu cũng như bilan lipid máu.

Kết quả của các nghiên cứu nước ngoài cho thấy, theo diễn biến tự nhiên, tỷ lệ chuyển từ tiền ĐTĐ thành ĐTĐ khoảng 1 – 10%/năm (tùy theo nghiên cứu) và những người TĐTĐ này có nguy cơ chiếm 20 – 30% chuyển thành ĐTĐ sau 5-10 năm [14-16]. Nhiều nghiên cứu can thiệp đã cho thấy hiệu quả của thay đổi lối sống đối với làm giảm tỷ lệ ĐTĐ. Theo kết quả của các tác giả Nhật Bản, sau 4 năm can thiệp, tỷ lệ ĐTĐ khoảng 3.0% ở nhóm can thiệp so với 9,3% ở nhóm chứng [9]. Nghiên cứu DaQing (Trung Quốc) cho thấy, sau 6 năm, tỷ lệ ĐTĐ ở nhóm can thiệp 46% so với nhóm chứng 67,7% [17]. Ở nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ ĐTĐ sau 6 tháng là khá cao (chiếm đến 17,7%), điều này cũng phù hợp với những lý giải về sự thay đổi chỉ số đường máu, HbA1c trước và sau can thiệp trong nghiên cứu này.

V. KẾT LUẬN

Ở những người nguy cơ cao mắc ĐTĐ, việc áp dụng phương thức thay đổi lối sống tích cực đã làm giảm có ý nghĩa chỉ số lipid máu và cải thiện mức đường máu, (cả đường máu lúc đói cũng như đường máu sau NPTĐH). Mặc dù đây là phương thức tưởng chừng như đơn giản, chi phí thấp, tuy nhiên việc áp dụng phương thức thay đổi lối sống cần có sự kiểm soát chặt chẽ của nhân viên y tế cùng với sự hợp tác tuân thủ điều trị của người bệnh thì mới có được kết quả khả quan nhất.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. International Diabetes Federation (2015), “IDF Diabetes Atlas, 7 ed. Brussels, Belgium: International Diabetes Federation..
  2. Levitsky Y và các cộng sự. (2008), “Impact of impaired fasting glucose on cardiovascular disease”, J Am Coll Cardiol. 51, tr. 264–70.
  3. Coutinho M và các cộng sự. (1999),The relationship between glucose and incident cardiovascular events. A meta-regression analysis of published data from 20 studies of 95,783 individuals followed for 12.4 years”, Diabetes Care;. 22, tr. 233–40.
  4. U.K. Prospective Diabetes Study Group (1995),U.K. prospective diabetes study 16. Overview of 6 years’ therapy of type II diabetes: a progressive disease.”, Diabetes 19, tr. 125– 129.
  5. Levy J và al, et (1998),Beta-cell deterioration determines the onset and rate of progression of secondary dietary failure in type 2 diabetes mellitus: the 10-year followup of the Belfast Diet Study. “, Diabet Med. 15, tr. 290– 296.
  6. EJ, Feskens và các cộng sự. (1995), “Dietary factors determining diabetes and impaired glucose tolerance. A 20-year follow-up of the Finnish and Dutch cohorts of the Seven Countries Study”, Diabetes Care. 18, tr. 1104–1112.
  7. Ramachandran A, C, Snehalatha và al, et (2006),The Indian diabetes prevention programme shows that lifestyle modification and metformin prevent type 2 diabetes in Asian Indian subjects with impaired glucose tolerance”, Diabetologia. Feb;49(2), tr. 289-97.
  8. Tiina Laatikainen, Dunbar, James A và al, et (2007),Prevention of Type 2 Diabetes by lifestyle intervention in an Australian primary health care setting: Greater Green Triangle (GGT) Diabetes Prevention Project”, BMC Public HealthBMC series open, inclusive and trusted 2007 .7:249. DOI: 10.1186/1471-2458-7-249.
  9. Kinori Kosakaa , Mitsuihiko Nodaa và Kuzuyab, Takeshi (2005), “Prevention of type 2 diabetes by lifestyle intervention a Japanese trial in IGT males”, Diabetes Research and Clinical Practice. 67, tr. 152–162.
  10. Knowler WC và các cộng sự. (2002), “Diabetes prevention program research group, “Reduction in incidence of type 2 diabetes with lifestyle intervention or metformin”, N Engl J Med. 346, tr. 393-403.
  11. Nguyễn Vinh Quang và et al (2008), Một số đặc điểm dịch tễ học bệnh đái tháo đường typ 2 và hiệu quả của biện pháp can thiệp cộng đồng tại Nam Định, Thái Bình (2002-2004), Luận án tiến sỹ, Học viện Quân y, Hà Nội.
  12. Cao Mỹ Phượng (2012), Nghiên cứu kết quả can thiệp cộng đồng phòng chống tiền đái tháo đường – đái tháo đường týp 2 tại huyện Cầu Ngang, tỉnh Trà Vinh, Luận án tiến sỹ., ĐH Y dược-ĐH Huế, Huế.
  13. Aleksandra Gilis-Januszewska và các cộng sự. (2011),Prevention of type 2 diabetes by lifestyle intervention in primary health care setting in Poland: Diabetes in Europe Prevention using Lifestyle, physical Activity and Nutritional intervention (DE-PLAN) project”, British Journal of Diabetes & Vascular Disease. 11, tr. 198-203.
  14. Meigs JB và các cộng sự. (2003), The natural history of progression from normal glucose tolerance to type 2 diabetes in the Baltimore Longitudinal Study of Aging”, Diabetes. 52, tr. 1475–1484.
  15. Garber AJ và các cộng sự. (2008), “Diagnosis and management of prediabetes in the continuum of hyperglycemia: when do the risks of diabetes begin? A consensus statement from the American College of Endocrinology and the American Association of Clinical Endocrinologists”, Endocr Pract. 14(7), tr. 933-946.
  16. Tirosh A và các cộng sự. (2005), Normal fasting plasma glucose levels and type 2 diabetes in young men”, N Engl J Med. 353, tr. 1454–1462.
  17. Xiao-Ren Pan và Guang-Wei Li (1997), “Effects of diet and exercise in preventing NIDDM in people with impaired glucose tolerance: The Da Qing IGT and diabetes study”, Diabetes Care. April vol(20), tr. 537-544.

About Hội Nội tiết & Đái tháo đường Miền Trung

Check Also

Khảo sát mối liên quan giữa vitamin D huyết thanh và một số các yếu tố liên quan đến tổn thương thận mạn ở bệnh nhân bệnh thận đái tháo đường

KHẢO SÁT MỐI LIÊN QUAN GIỮAVITAMIN D HUYẾT THANH VÀ MỘT SỐ CÁC YẾU TỐ …