GIÁ TRỊ CỦA SIÊU ÂM VÀ CẮT LỚP VI TÍNH TRONG ĐÁNH GIÁ HẠCH CỔ Ở BỆNH NHÂN UNG THƯ BIỂU MÔ TUYẾN GIÁP TẠI BỆNH VIỆN NỘI TIẾT NGHỆ AN
Nguyễn Thị Cẩm Nhung, Đoàn Minh Thúy, Trương Quốc Chung
1Bệnh viện Nội tiết Nghệ An
DOI: 10.47122/vjde.2022.57.17
ABSTRACT
Objective: To evaluate values of ultrasound and CT Scanner in Cervical lymph Node Metastasis from Thyroid Carcinoma diagnosis. Subjects and Methods: A cross-sectional descriptive study in 112 patients with 216 lymph nodes on ultrasound and 60 lymph nodes on CT Scanner. Ultrasound and CT Scanner was assessed, FNA has been done and comparison with the result of pathology. Results: The ratio of female/male was 8. There were 138 benign lymph nodes and 78 malignant lymph nodes on ultrasound, 41 benign lymph nodes and 19 lymph nodes on CT Scanner. Distribution of cervical lymph node metastasis from thyroid carcinoma on ultrasound and CT Scanner: Cervical lymph Node Metastasis from Thyroid Carcinoma is common in the central compartment (level VI) with 47.4% on ultrasound and 52,6% on CT Scanner, followed by lateral compartment (level IV and level III). The value of Ultrasound in Cervical lymph Node Metastasis from Thyroid Carcinoma diagnosis: The ratio of L/S<2, round shape, irregular margin, microcalcification had higher sensitivity and specificity than other features. The value of CT Scanner in Cervical Lymph Node Metastasis from Thyroid Carcinoma diagnosis: The sensitivity, specificity and accuracy of strong nodal enhancement on CT Scanner were 57,9%, 95,1%, 83,3%. Conclusion: Cervical lymph node metastasis from Thyroid Carcinoma evaluated on ultrasound and CT Scanner is common at the central compartment lymph node (level VI), followed by the lateral compartment lymph node (level IV and III). Suspicious features of lymph nodes were the following: round shape, irregular margin, cystic change, calcification on ultrasound and strong nodal enhancement on CT Scanner.
Keywords: Cervical lymph node metastasis, thyroid carcinoma, ultrasound, CT Scanner
TÓM TẮT
Mục tiêu: Nhận xét vai trò của siêu âm và cắt lớp vi tính (CLVT) trong chẩn đoán hạch cổ ở bệnh nhân ung thư biểu mô tuyến giáp (UTBMTG). Đối tượng và phương pháp: Mô tả cắt ngang trên 112 bệnh nhân với 216 hạch được đánh giá trên siêu âm và 60 hạch trên CLVT. Các bệnh nhân được siêu âm và chụp CLVT vùng cổ và làm xét nghiệm FNA, sinh thiết tức thì và mô bệnh học từ đó tính ra độ nhạy, độ đặc hiệu và độ chẩn đoán chính xác của phương pháp siêu âm. Kết quả: Tỉ lệ nữ/nam là 8. Theo kết quả mô bệnh học có 138 hạch lành tính, 78 hạch ác tính (trên siêu âm) và 41 hạch lành tính, 19 hạch ác tính (trên CLVT). Về phân bố nhóm hạch trên siêu âm và CLVT: hạch di căn trong UTBMTG chủ yếu thuộc nhóm hạch trung tâm (nhóm VI) với tỷ lệ là 47,4% trên siêu âm và 52,6% trên CLVT, tiếp theo là nhóm hạch cổ bên (nhóm IV và nhóm III). Giá trị của siêu âm chẩn đoán hạch vùng cổ: các dấu hiệu như tỷ lệ L/S < 2, hình dạng hạch tròn, bờ không đều, có vi vôi hóa trong hạch có độ nhạy và đặc hiệu cao hơn với các tính chất còn lại. Giá trị của CLVT trong chẩn đoán hạch vùng cổ: tính chất ngấm thuốc cản quang mạnh có độ nhạy, độ đặc hiệu, độ chẩn đoán chính xác đều cao (lần lượt 57,9%, 95,1%, 83,3%. Kết luận: Di căn hạch vùng cổ từ UTBMTG đánh giá trên siêu âm và CLVT thường gặp ở nhóm cổ trung tâm, chủ yếu nhóm VI, tiếp theo là nhóm hạch cổ bên (IV và III). Các dấu hiệu gợi ý ác tính trên siêu âm là hình dạng hạch tròn, bờ không đều, hoại tử hạch và vi vôi hóa, trên CLVT là dấu hiệu ngấm thuốc đối quang mạnh.
Từ khóa: Hạch cổ di căn, ung thư biểu mô tuyến giáp, siêu âm, CLVT.
Tác giả liên hệ: Nguyễn Thị Cẩm Nhung
Email: [email protected]
Ngày nhận bài: 15/9/2022
Ngày phản biện khoa học: 15/10/2022
Ngày duyệt bài: 5/11/2022
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong ung thư tuyến giáp di căn hạch cổ là một yếu tố tiên lượng xấu cho bệnh nhân (thời gian sống sau phẫu thuật thấp hơn và khả năng tái phát cao hơn). Về điều trị theo khuyến cáo của Mạng lưới ung thư quốc gia của Mỹ (NCCN) Hiệp hội tuyến giáp của Mỹ (ATA) và nhiều tác giả khác phẫu thuật cắt bỏ tuyến giáp và nạo vét hạch cổ kết hợp với điều trị I131 là lựa chọn hàng đầu với ung thư biểu mô TG [1],[2]. Siêu âm có giá trị cao trong chẩn đoán và theo dõi BN UTTG trước và sau phẫu thuật. Tuy nhiên hạn chế của phương pháp siêu âm là không đánh giá được tổng quát các cấu trúc xung quanh vùng cổ cũng như các hạch ở sâu dưới hõm ức (nhóm số VII). Máy chụp cắt lớp vi tính (CLVT) đa lát cắt, tái tạo theo không gian ba chiều đã khắc phục được các nhược điểm của siêu âm, ngày càng trở thành phương pháp chẩn đoán có giá trị cao trong bệnh lý tuyến giáp nói chung và đánh giá hạch cổ nói riêng. Vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu này với các mục tiêu sau:
- Nghiên cứu đặc điểm hình ảnh của hạch vùng cổ trên siêu âm và cắt lớp vi tính ở bệnh nhân ung thư biểu mô tuyến giáp.
- Nhận xét vai trò của siêu âm và cắt lớp vi tính trong chẩn đoán hạch cổ ở bệnh nhân ung thư biểu mô tuyến giáp.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng:
112 bệnh nhân với 216 hạch được đánh giá trên siêu âm và 60 hạch trên CLVT. Tiêu chuẩn chọn bệnh: Chọn các bệnh nhân được chẩn đoán hoặc nghi ngờ UTTG (theo kết quả FNA) và có hạch cổ nghi ngờ ác tính, được phẫu thuật tại khoa Ngoại bệnh viện Nội Tiết Nghệ An. Tiêu chuẩn loại trừ: BN có chống chỉ định chụp CLVT có tiêm thuốc cản quang.
2.2. Phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang. Các bệnh nhân được siêu âm và chụp CLVT vùng cổ và làm xét nghiệm FNA, sinh thiết tức thì và mô bệnh học từ tháng 3/2020 đến tháng 10/2020.
Các biến về đặc điểm của hạch trên siêu âm
- Vị trí: Theo AJCC chia các hạch vùng cổ thành hai khoang: Vùng hạch cổ trung tâm (bao gồm nhóm VI và VII) và vùng hạch cổ bên (bao gồm các hạch từ I-V).
- Số lượng (một bên/hai bên), kích thước hạch (ĐK trục ngắn:≤ 8mm, >8mm), tỷ lệ trục dài/ngắn(≥2,<2), vỏ hạch (dày đồng tâm, lệch tâm), hình dạng (bầu dục/dẹt, tròn), bờ (Đều, rõ hay không đều), độ hồi âm (Giảm âm, tăng âm, hỗn hợp âm), rốn hạch (có/ không), hoại tử (có/không), vôi hóa( vôi hóa thô, vi vôi hóa), tưới máu (rốn, ngoại vi, hỗn hợp, không có tưới máu).
Các biến về đặc điểm của hạch trên CLVT
Tỷ lệ trục dài/ngắn (≥2,<2), tỷ trọng (đồng nhất, không đồng nhất, hoại tử), ngấm thuốc mạnh (kém, trung bìn, mạnh), vôi hóa bên trong hạch.
2.3. Xử lý số liệu: Phần mềm SPSS 20.0 và Excell 2010.
Các thuật toán áp dụng: Khi bình phương, tính độ nhạy (Se), độ đặc hiệu (Sp), độ chẩn đoán chính xác (Acc), giá trị dự báo dương (PPV), giá trị dự báo âm (NPV) của phương pháp siêu âm và cắt lớp vi tính, đối chiếu với kết quả giải phẫu bệnh làm tiêu chuẩn vàng, trung bình và độ lệch chuẩn.
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Đặc điểm chung
Tổng số 112 BN có hạch di căn trong ung thư biểu mô tuyến giáp, nữ / nam = 99/13 (~ 8). Tuổi trung bình 49, thấp nhất 17 tuổi, cao nhất 74 tuổi. Nhóm tuổi từ 46-60 tuổi chiếm cao nhất (45,5%).
3.2. Đặc điểm của hạch trên siêu âm và cắt lớp vi tính
Bảng 1. Phân bố đặc điểm nhóm hạch trên siêu âm theo kết quả mô bệnh học (N=216)
Tỷ lệ hạch ác tính thường gặp ở nhóm hạch cổ trung tâm chủ yếu nhóm VI (47,7%), tiếp theo là nhóm hạch cổ bên: nhóm IV (30,8%) và nhóm III (15,4%)
Bảng 2. Phân bố đặc điểm nhóm hạch trên CLVT theo kết quả mô bệnh học (N=60)
Tỷ lệ gặp hạch ác tính ở nhóm số VI cao nhất (52,6%), tiếp theo là nhóm số IV (26,3%).Trong nhóm hạch trung tâm, hạch ác tính có tỷ lệ cao hơn hạch lành tính ở cả hai nhóm VI và VII (52,6% so với 26,8%, 10,5% so với 4,9%).Còn ở nhóm cổ bên thì ngược lại, tỷ lệ gặp hạch lành tính lại cao hơn ác tính ở tất cả các nhóm hạch.
Bảng 3. Phân bố đặc điểm tính chất hạch trên siêu âm (N=216)
Các đặc điểm cấu trúc âm hỗn hợp âm, bờ không đều, vi vôi hóa chiếm tỷ lệ trong nhóm hạch ác tính cao hơn hẳn so với nhóm hạch lành tính (14,1% so với 0,0%, 41,1% so với 23,9%, 26,9% so với 4,3%).
Bảng 4. Phân bố đặc điểm tính chất hạch trên cắt lớp vi tính (N=60)
Hạch ác tính có tính chất tỷ lệ trục dài/ngắn <2 là 100,0%, không có hạch nào có tính chất tỷ lệ trục dài/ngắn >2. Về tính chất tỷ trọng hạch thì hầu như các hạch đều ngấm thuốc đồng nhất, ở cả hai nhóm lành tính và ác tính (87,8% và 89,5%).Tính chất ngấm thuốc đối quang, tỷ lệ hạch ngấm thuốc mạnh ở nhóm ác tính cao hơn hẳn nhóm lành tính (57,9% so với 4,9%).
3.3. Giá trị của siêu âm và cắt lớp vi tính trong chẩn đoán hạch vùng cổ
Bảng 5. Giá trị của siêu âm trong đánh giá đặc điểm hạch vùng cổ
Trong các đặc điểm siêu âm của hạch di căn vùng cổ trong UTTG thì đặc điểm tỷ lệ trục dài/trục ngắn <2 và không có rốn hạch có độ nhạy cao (cao nhất là 96,2%) nhưng độ đặc hiệu khá thấp. Ngược lại, các tính chất độ hồi âm hỗn hợp, ĐK trục ngắn >8mm, dày vỏ hạch không đều, hình dạng tròn, hoại tử, vi vôi hóa và kiểu tưới máu hỗn hợp có độ nhạy thấp nhưng độ đặc hiệu cao (cao nhất là 100%). Các dấu hiệu tính chất hạch trên siêu âm như hỗn hợp âm, có hoại tử hoặc vi vôi hóa bên trong, kiểu tưới máu hỗn hợp có gợi ý cao hạch ác tính (độ chẩn đoán chính xác trên 65,0%).
Bảng 6. Giá trị của CLVT trong đánh giá đặc điểm hạch vùng cổ
Trong các dấu hiệu trên cắt lớp vi tính gợi ý tính chất hạch ác tính thì chỉ có tính chất ngấm thuốc mạnh là có cả độ nhạy và độ đặc hiệu đều cao (57,9% và 95,1%), độ chẩn đoán chính xác và độ dự báo dương cũng cao nhất (83,3% và 84,6%). Các dấu hiệu còn lại thì nếu có độ đặc hiệu cao thì độ nhạy thấp và ngược lại.
4. BÀN LUẬN
Nghiên cứu của chúng tôi có tỷ lệ nữ cao gấp 8 lần nam. Hầu hết các nghiên cứu đều có tỷ lệ di căn hạch cổ trong UTBMTG ở nữ cao hơn nam như nghiên cứu của tác giả Davit Kocharyan và nghiên cứu của tác giả Giovani Conzo cùng cộng sự với kết quả tỷ lệ nữ/nam
~ 3/1 [3], [4].
Tuổi trung bình là 49 tuổi, cao nhất 74 tuổi, thấp nhất là 17 tuổi. Kết quả này cũng tương tự như kết quả các nghiên cứu khác.
Về phân bố nhóm hạch trên siêu âm theo kết quả mô bệnh học Hạch di căn trong ung thư biểu mô tuyến giáp chủ yếu thuộc nhóm hạch trung tâm (nhóm VI) với tỷ lệ là 47,4%, tiếp theo là nhóm hạch cổ bên (nhóm IV và nhóm III) với tỷ lệ lần lượt là 30,8% và 15,4%.
Kết quả của chúng tôi ngược lại với kết quả nghiên cứu của tác giả Hengquiang Zhao, tỷ lệ di căn nhóm hạch cổ bên cao hơn nhóm hạch trung tâm (46,6% so với 36,2%) [5]. Nguyên nhân có sự khác biệt này có thể là do một số hạch thuộc nhóm trung tâm có kích thước quá nhỏ và vị trí nằm sâu phía dưới hõm ức (nhóm VII) nên hạn chế đánh giá trên siêu âm.
Về phân bố nhóm hạch trên CLVT theo kết quả mô bệnh học cũng tương tự như trên siêu âm, tỷ lệ gặp hạch ác tính ở nhóm số VI cao nhất (52,6%), tiếp theo là nhóm số IV (26,3%). Tác giả Dae Kwon Na và cộng sự sử dụng CLVT để đánh giá hạch di căn vùng cổ trên 176 BN mắc UTTG thể nhú thì có 81 bệnh nhân có di căn hạch ở nhóm hạch trung tâm, và 14 di căn ở nhóm cổ bên [3].
Tác giả Jian Chen tiến hành nghiên cứu trên 275 BN UTTG thể nhú, được đánh giá bằng siêu âm và CLVT trước mổ, và kết quả sau phẫu thuật chỉ ra rằng nhóm hạch số VII có tỷ lệ di căn khá cao, đặc biệt là từ các nhân ở 1/3 giữa và dưới TG.
Giá trị của siêu âm chẩn đoán hạch vùng cổ các dấu hiệu như tỷ lệ L/S < 2, hình dạng hạch tròn, bờ không đều, có vi vôi hóa trong hạch có độ nhạy và đặc hiệu cao hơn với các tính chất còn lại. Dấu hiệu hoại tử trong hạch có độ đặc hiệu lên tới 100,0%. Đây cũng là các dấu hiệu gợi ý cao hạch ác tính. Kết quả này có dấu hiệu hoại tử hạch và vi vôi hóa có độ nhạy thấp hơn so với kết quả nghiên cứu của tác giả Yu-Mee Sohn và cộng sự (3,8% so với 34,0%, 26,9% và 45,0%)[6]. Nguyên nhân là do trong nghiên cứu của chúng tôi, nhân ung thư có KT nhỏ, MBH có tỷ lệ vi ung thư cao, BN lại được phẫu thuật sớm nên hầu hết hạch di căn thường có kích thước nhỏ, hạn chế đánh giá các chi tiết cấu trúc hạch.
Giá trị của cắt lớp vi tính trong chẩn đoán hạch vùng cổ trong các dấu hiệu trên cắt lớp vi tính gợi ý tính chất hạch ác tính thì chỉ có tính chất ngấm thuốc mạnh là có cả độ nhạy và độ đặc hiệu đều cao (57,9% và 95,1%), độ chẩn đoán chính xác và độ dự báo dương cũng cao nhất (83,3% và 84,6%). Kết quả này cũng phù hợp với kết quả của tác giả Kyu Ri Son và cộng sự nghiên cứu trên 212 BN UTTG thể nhú, sử dụng CLVT để đánh giá hạch vùng cổ, dấu hiệu ngấm thuốc mạnh có Se (43,0%) Sp (96,0%), Acc (81,6%).
Nghiên cứu này còn chỉ ra các dấu hiệu khác như ngấm thuốc không đồng nhất, hoại tử dịch, vôi hóa cũng có độ đặc hiệu cao, lần lượt là 96,0%, 99,0%, 99,0% [7]. Như vậy, so với siêu âm, ngoài các dấu hiệu như hoại tử hay có vôi hóa bên trong, thì dấu hiệu ngấm thuốc cản quang mạnh là một dấu hiệu có gợi ý rất cao là hạch ác tính.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Liu, C., et al., Risk factor analysis for predicting cervical lymph node metastasis in papillary thyroid carcinoma: a study of 966 patients. BMC Cancer, 2019. 19(622): p. 1-10.
- Haugen, B.R., et al., 2015 American Thyroid Association Management Guidelines for Adult Patients with Thyroid Nodules and Differentiated Thyroid Cancer. American Thyroid Association, 2016. 26(1): p. 1-133.
- Kocharyan, D., et al., The relevance of preoperative ultrasound cervical mapping in patients with thyroid cancer. Can J Surg, 2016. 59 (2): p. 113–117.
- Conzo, G., D. Pasquali, and C. Mauriello, Predictive value of nodal metastases on local recurrence in the management of differentiated thyroid Retrospective clinical study. BMC Surg, 2013. 13(Suppl 2).
- Zhao, H. and H. Li, Meta-analysis of ultrasound for cervical lymph nodes in papillary thyroid cancer: Diagnosis of central and lateral compartment nodal metastases. European Journal of Radiology, 2019. 112: p. 14-21.
- Sohn, Y.-M., J.Y. Kwak, and E.-K. Kim, Diagnostic Approach for Evaluation of Lymph Node Metastasis From Thyroid Cancer Using Ultrasound and Fine- Needle Aspiration BiopsyRead American Journal of Roentgenology, 2010. 194: p. 38-43.
- Kyu Ri Son, M.D. and M.D. Dong Gyu Na, Diagnostic Value of CT for the Detection of Cervical Lymph Node Metastases in Papillary Thyroid Carcinoma. J Korean Soc Radiol, 2009. 60: p. 383-389.