Người nhận hormone tăng trưởng có nguy cơ phải đối mặt với sự gia tăng rủi ro nhỏ của tim vào giai đoạn tuổi trưởng thành.

Người nhận hormone tăng trưởng có nguy cơ phải đối mặt với sự gia tằn rủi ro nhỏ của tim vào giai đoạn tuổi trưởng thành.

Trẻ em từng được sử dụng hormone tăng trưởng phải đối mặt với một nguy cơ khá cao mắc các bệnh liên quan đến tim mạch khi họ đạt đến tuổi trưởng thành, theo một nghiên cứu lớn từ Thụy Điển.

Trong bối cảnh sự kiện hàng năm cho 442 bệnh nhân không được điều trị bằng liệu pháp Hormone tăng trưởng, nguy cơ tăng lên 1/391 đối với 3.408 người được điều trị bằng Hormone tăng trưởng, nguy cơ tăng lên đáng kể, đạt 69%

Phụ nữ phải đối mặt với nguy cơ cao gấp đôi, với tỷ lệ nguy hiểm là 2,05 so với tỉ lệ 1,55 đối với nam giới, theo báo cáo trong JAMA Pediatrics. Thời gian điều trị càng dài và liều tích lũy càng cao, tỷ lệ rối loạn nhịp tim, bệnh tăng huyết áp, đột quỵ và rủi ro mắc các vấn đề khác càng lớn.

Tuy nhiên, thật khó để có thể lường trước được liệu nguy cơ gia tăng có phải do điều trị trực tiếp gây ra hay do các vấn đề cơ bản ngay từ lúc bắt đầu làm liệu pháp

“Điều này là điều quan trọng cần nhớ khi đánh giá rủi ro cho một cá nhân nào đó”, tác giả chính Tiến sĩ Anders Tidblad của Viện Karolinska ở Stockholm nói với Reuters Health qua email. “Những gì được trình bày là một mối liên kết và không phải mang giá trị giải thích có nhân quả. Chúng tôi vẫn không biết chắc chắn được có những nguyên nhân cơ bản nào khác quan sát thấy gây tăng rủi ro, ngay cả khi chúng tôi đã cố gắng càng hết sức mình để giải quyết vấn đề này bằng việc có một nhóm so sánh giống nhất có thể và điều chỉnh các biến đổi quan trọng.

Một nghiên cứu ban đầu của Pháp được công bố vào năm 2012 đã cảnh báo về khả năng tử vong do bệnh tim mạch và bệnh liên quan mạch máu não

Tiến sĩ Tidblad, trưởng khoa nội tiết nhi khoa tại Bệnh viện Đại học Karolinska cho biết: “Tôi tin rằng nghiên cứu của Pháp đã khuấy động sự lo lắng trong cộng đồng và tạm thời có thể có tác động tiêu cực đến việc bắt đầu điều trị mới. Nhưng những khó khăn để rút ra kết luận vững vàng từ nghiên cứu trên đã làm cho hiệu ứng này không gây tác động nhiều.”

Ông dự đoán rằng “Các bác sĩ nội tiết nhi khoa sẽ hoan nghênh nghiên cứu của chúng tôi và đánh giá cao nỗ lực của chúng tôi để giải quyết vấn đề này và đi đến kết luận rằng chúng ta cần tiếp tục cảnh giác với những tác động lâu dài tiềm tàng của phương pháp điều trị này.”

Ông nói: “Nhưng đối với từng bệnh nhân, nguy cơ tuyệt đối của biến cố tim mạch ở độ tuổi ngoài 40 là thấp. Bệnh nhân không nên quá lo lắng trước kết quả của chúng tôi.”

Có 3.408 bệnh nhân trong nghiên cứu thuần tập đã được tiêm hormone tăng trưởng vào thời điểm bất kì từ năm 1985 đến năm 2010. Mỗi bệnh nhân được kết hợp với 15 bệnh nhân đối chứng bởi hệ thống quốc gia của Thụy Điển. 2/3 số người tham gia nghiên cứu là nam giới. Họ đã được theo dõi đến cuối năm 2014, trung bình là 14,9 năm.

Lý do cơ bản cho việc điều trị không tạo ra sự khác biệt lớn về rủi ro. Những người được chẩn đoán là nhỏ tuổi hơn so với tuổi thai có nguy cơ tăng lên 97%. Tỷ lệ này cao hơn 66% ở những bệnh nhân được coi là thiếu hụt hormone tăng trưởng cô lập và cao hơn 55% khi được chẩn đoán là người thấp lùn vô căn (idiopathic short stature).

Cả thiếu hụt hormone tăng trưởng và có lượng hormone tăng trưởng dư thừa đều làm tăng nguy cơ mắc các vấn đề tim mạch.

Trong nghiên cứu mới, nhóm của Tiến sĩ Tidblad phát hiện ra rằng thời gian điều trị hormone tăng trưởng càng dài thì nguy cơ càng lớn. Nó không tăng lên đáng kể trong hai năm điều trị, nhưng gấp đôi khi trải qua bảy năm điều trị trở lên.

Tổng lượng hormone tăng trưởng tích lũy được sử dụng cũng có liên quan đáng kể đến tăng cơ hơn. Tỷ lệ nguy cơ đã điều chỉnh là 2,27 (khoảng tin cậy 95%, 1,01 đến 5,12) đối với bệnh tim mạch nặng, bao gồm chứng phình động mạch, bệnh tim thiếu máu cục bộ, bệnh cơ

tim, suy tim và các bệnh mạch máu não.

“Chúng tôi thấy rằng nguy cơ cao nhất là trong số những người có thời gian điều trị lâu nhất và liều tích lũy cao nhất, nhưng không mối liên hệ với liều trung bình hàng ngày. Phát hiện này có thể chỉ ra một chuỗi đáp ứng liều nhưng cũng có thể được gây ra bởi một sự không đồng nhất tiềm ẩn trong số các bệnh nhân được điều trị, trong đó những người có thời gian điều trị lâu nhất và liều tích lũy cao nhất cũng có nguy cơ tăng cơ bản vì những lý do khác.”

“Chúng tôi sẽ cần phải tiếp tục theo dõi các bệnh nhân được điều trị trước đó và theo thời gian, chúng tôi sẽ có thêm thông tin về rủi ro,”Tiến sĩ Tidblad nói. “Với theo dõi lâu hơn, chúng tôi sẽ có thể nói điều gì đó về rủi ro sau này trong cuộc sống và cũng có nhiều sự kiện mà sẽ cải thiện khả năng thống kê của chúng tôi cho các sự kiện hiếm.”

 

Người dịch: Gia Tân.

Link gốc: www.medscape.com/viewarticle/942988

SOURCE: https://bit.ly/2WxtCZp and https://bit.ly/2KgFj4g JAMA Pediatrics, online December 21, 2020.

Anders Tidblad, MD, PhD1Matteo Bottai, PhD, ScD2Helle Kieler, MD, PhD3; et alKerstin Albertsson-Wikland, MD, PhD4Lars Sävendahl, MD, PhD1

Author Affiliations

JAMA Pediatr. Published online December 21, 2020. doi:10.1001/jamapediatrics.2020.5199

Adda Grimberg, MD1,2

Author Affiliations

JAMA Pediatr. Published online December 21, 2020. doi:10.1001/jamapediatrics.2020.5232

Bài viết được dịch thuật và biên tập bởi CLB Nội tiết trẻ trên DEMACVN.COM – vui lòng không reup khi chưa được cho phép!

About CLB Nội tiết trẻ

CLB Nội tiết trẻ là nhóm Bác sĩ, học viên, sinh viên có đam mê về Nội tiết - Đái tháo đường & Rối loạn chuyển hóa. Hoạt động là lược dịch các bài viết cập nhật, chia sẻ kiến thức, phối hợp thực hiện các nghiên cứu tại nhiều vùng miền trong cả nước

Check Also

Một số vi khuẩn đường ruột có thể làm giảm nguy cơ mắc bệnh đái tháo đường

Trong một nghiên cứu quan sát ở Hà Lan cho thấy người có hệ vi …