TỈ LỆ BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TÝP 2 ĐẠT MỤC TIÊU HbA1c
TẠI MỘT PHÒNG KHÁM CHUYÊN KHOA ĐÁI THÁO ĐƯỜNG
Ở TP HỒ CHÍ MINH
ThS. Hứa Thành Nhân*, PGS. TS Nguyễn Thy Khuê**
*BV Đa Khoa Trung ương Cần Thơ, **Đại học Y Dược TP.HCM
Abstract
Objective: The objective of this study was to determine the percentage of type 2 diabetic patients achieving HbA1c less than 7% and its associated factors in a diabetic clinic.
Methods: This is a cross-sectional study, 600 type 2 diabetic outpatients from a diabetic clinic (Medic Center) in Ho Chi Minh City, were enrolled in the study.
Results: Mean age of the participants (n=600) was 62 years old, 76,8 % were female, mean duration of diabetes was 10 years. 202 patients (33,7%) achieved HbA1c target of less than 7%, 243 patients (40,5%) had fasting plasma glucose less than 130mg/dL. Compared with patients who had poor glycemic control (HbA1c≥7%), those with good control (HbA1c<7%) were younger (P = 0.001), had shorter duration of DM (p < 0.001), lower waist-hip ratio(p < 0.001), higher level of education (p = 0.023), more physical activity (p<0.001) and good adherence to diet (p<0.001). Patients who used insulin or multiple oral antidiabetic drugs had poorer glycemic control (p<0.001).
Conclusions: Nearly 2/3 of type 2 diabetic patients in this study had HbA1c ≥7%, this tends to be more prevalent in chronic diabetes with poor addherence to good lifestyle habits.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Theo nghiên cứu kinh điển UKPDS[15] hay DCCT[8] để ngăn ngừa hay làm giảm các biến chứng của đái tháo đường, chúng ta cần kiểm soát tốt đường huyết.
Tuy nhiên việc đạt được mục tiêu HbA1c trong kiểm soát đường huyết không phải dễ dàng.Tỉ lệ bệnh nhân đạt được mức theo khuyến cáo thường không quá 60%.
Ở Mỹ theo điều tra về sức khỏe và dinh dưỡng năm 2003-2004, tỉ lệ đạt mục tiêu HbA1c là 56,8%[4], ở Na Uy năm 2008 là 65%[7], Tây Ban Nha năm 2007 là 50,6%[9], ở Úc năm 2006 là 30%[1], ở Châu Phi năm 2007 là 21%[3], ở Việt Nam theo Diabcare-Asia 1998 là 18%[2]. Gần đây ở Việt Nam có ít nghiên cứu cập nhật về tỉ lệ đạt mục tiêu HbA1c cũng như không có nghiên cứu đề cập đến các yếu tố liên quan đến đạt HbA1c mục tiêu. Do đó, chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm mục tiêu:
- Xác định tỉ lệ đạt mục tiêu HbA1<7% trên bệnh nhân đái tháo đường típ 2
- Tìm mối liên quan giữa kết quả điều trị HbA1c và một số yếu tố như: tuổi, giới, trình độ học vấn, BMI, vòng eo, tỉ số eo/hông, thời gian bệnh đái tháo đường, bệnh phối hợp, vận động thể lực, tuân thủ chế độ ăn, dùng insulin và số loại thuốc viên hạ đường huyết.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu:
Bao gồm 600 bệnh nhân đái tháo đường típ 2 đang điều trị tại phòng khám nội tiết trung tâm Medic thành phố Hồ Chí Minh đồng ý tham gia nghiên cứu.
Loại trừ bệnh nhân mới được điều trị hay không đủ một số xét nghiệm theo yêu cầu.
2. Phương pháp nghiên cứu:
- Thiết kế nghiên cứu: nghiên cứu cắt ngang mô tả.
- Phương pháp chọn mẫu: thuận lợi, không xác suất.
- Bệnh nhân được hỏi bệnh sử, đo chiều cao, cân nặng, vòng eo, hông, thực hiện cận lâm sàng như đường huyết đói, HbA1c, creatinine máu, tỉ số albumin/creatinine niệu, chụp võng mạc.
- HbA1c được đo bằng phương pháp sắc ký lỏng cao áp
- Phân tích số liệu bằng phần mềm SPSS16.0
III. KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
1. Đặc điểm chung của mẫu nghiên cứu:
Số liệu trình bày dưới dạng tần suất (tỉ lệ %) hoặc trung bình ± độ lệnh chuẩn.
2. Tỉ lệ đạt mục tiêu điều trị:
Tỉ lệ đạt mục tiêu đường huyết đói <130mg% là 40,5%, HbA1c<7% là 33,7%.
3. Đặc điểm của hai nhóm đạt và không đạt mục tiêu HbA1c – Phân tích đơn biến tìm các yếu tố liên quan đến việc đạt mục tiêu HbA1c:
Nghiên cứu của chúng tôi nhận thấy các bệnh nhân đạt mục tiêu HbA1c<7% có tuổi đời, vòng eo, tỉ lệ eo/hông và thời gian mắc bệnh đều thấp hơn các bệnh nhân chưa đạt mục tiêu HbA1c một cách có ý nghĩa thống kê. Mức vận động thường xuyên >5 lần/tuần, đạt mục tiêu HbA1c cao hơn hẳn so với nhóm không vận động(P=0,001, OR=2,5, 95%KTC 1,43-4,27). Tương tự, nhóm tuân thủ tốt đạt mục tiêu HbA1c cao hơn nhóm tuân thủ kém(P=0,000, OR=3,6, 95%KTC 2,07-6,36).
4. Phân tích đa biến tìm yếu tố độc lập liên quan đến đạt mục tiêu HbA1c
Từ phân tích đa biến ta thấy có 4 yếu tố liên quan độc lập lên kết quả đạt mục tiêu HbA1c bao gồm: tuổi đời, tuân thủ chế độ ăn, insulin, số loại thuốc viên hạ đường huyết.
III. BÀN LUẬN
Tỉ lệ đạt đường huyết đói <130mg% là 40,5%, HbA1c<7% là 33,7%.
Theo báo cáo Diabcare-Asia 1998, Việt Nam tỉ lệ bệnh nhân đạt HbA1c<7% chỉ 18%. Như vậy, có sự cải thiện kết quả điều trị so với trước. Nghiên cứu năm 2008 của Hirohide Yokokwa, Nguyễn Thy Khuê và cộng sự thực hiện tại hai trung tâm Thành Phố Hồ Chí Minh: trung tâm chẩn đoán y khoa Medic và bệnh viện 115, cho kết quả tương tự. Nghiên cứu cho thấy tỉ lệ đạt HbA1c<7% ở Medic là 38,8%, bệnh viện 115 là 38,3%[17].
So với một số nước châu Á, kết quả của chúng tôi cũng không thua kém hơn. Tỉ lệ đạt HbA1c mục tiêu ở Thái Lan là 29,7%[16], ở Malaysia 20%[8], ở Trung Quốc là 26,2%[6], ở Hàn Quốc là 40%[11].
Tuy nhiên ở khu vực Châu Âu, Bắc Mỹ tình trạng kiểm soát đường huyết tốt hơn vì đây là những quốc gia phát triển có nền y tế rất tốt. Tỉ lệ HbA1c<7% ở Tây Ban Nha là 50,6%[9], ở Estonia 50%[10], Na Uy là 65%[7], Hà Lan là 70,5[12], ở Mỹ là 56,8%[4], ở Canada là 48%[13].
Khi so sánh giữa nhóm bệnh nhân đạt và không đạt mục tiêu điều trị HbA1c, chúng tôi nhận thấy có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tuổi, giới, vòng eo, tỉ lệ eo/hông, thời gian mắc bệnh ĐTĐ, bệnh phối hợp, trình độ đại học, vận động thể lực, chế độ ăn, dùng insulin, số loại thuốc viên hạ đường huyết. Từ sự khác biệt của các đơn biến đó, chúng tôi phân tích đa biến và tìm ra được 4 yếu tố độc lập lập liên quan đến đạt mục tiêu điều trị HbA1c gồm: tuổi đời, tuân thủ chế độ ăn, điều trị với insulin và số lượng thuốc viên hạ đường huyết. Cứ tăng thêm 1 tuổi sẽ làm giảm 2,1% khả năng đạt mục tiêu HbA1c<7% (P=0,047).
Nhóm phải dùng nhiều loại thuốc viên hạ đường huyết đạt mục tiêu HbA1c<7% thấp hơn nhóm dùng ít thuốc viên hạ đường huyết(P=0,000).
Bệnh nhân tuân thủ chế độ ăn tốt đạt mục tiêu HbA1c<7% gấp 2,3 lần nhóm tuân thủ kém (P=0,012). Nhóm không dùng insulin đạt mục tiêu HbA1c<7% cao hơn nhóm phải dùng insulin (P=0,000).
Theo nghiên cứu của Goudswaard và cộng sự cho thấy tuổi là yếu tố độc lập liên quan đến HbA1c, cứ tăng thêm 1 tuổi sẽ giảm khả năng đạt mục tiêu điều trị HbA1c xuống 2% (p=0,001)[5]. Theo nghiên cứu T2DM QUERI ở Canada có kết quả ngược với chúng tôi về yếu tố tuổi. Nghiên cứu này cho rằng tăng mỗi 5 tuổi thì khả năng đạt mục tiêu HbA1<7% tăng lên 2,4% (OR=1,024, p=0,023)[13] sau khi đã hiệu chỉnh với các yếu tố liên quan khác.
Về thời gian mắc bệnh, nghiên cứu này tương tự như nghiên cứu của chúng tôi. Thời gian mắc ĐTĐ của bệnh nhân ngắn hơn mỗi 5 năm thì khả năng đạt HbA1c<7% tăng lên 45% (OR=1,451, p<0,0001)[13]. Nghiên cứu T2DM QUERI cũng cho thấy nhóm dùng nhiều loại thuốc viên hạ đường huyết đạt mục tiêu HbA1c thấp hơn nhóm dùng ít thuốc viên hạ đường huyết (OR=1,326, p<0,0001).
IV. KẾT LUẬN
Tỉ lệ đạt mục tiêu HbA1c<7% là 33,7%.
Các yếu tố: tuổi, giới, vòng eo, tỉ lệ eo/hông, thời gian mắc bệnh ĐTĐ, bệnh phối hợp, trình độ đại học, vận động thể lực, tuân thủ chế độ ăn, dùng insulin, số loại thuốc viên hạ đường huyết có liên quan đến việc đạt được mục tiêu HbA1c
Từ mô hình hồi quy logistic đa biến, có 4 yếu tố độc lập liên quan đến đạt mục tiêu HbA1c gồm tuổi, tuân thủ chế độ ăn, điều trị với insulin và số lượng thuốc viên hạ đường huyết.
Tóm tắt
Mục tiêu: Xác định tỉ lệ đạt muc tiêu HbA1c<7% và các các yếu tố liên quan ở bệnh nhân đái tháo đường típ 2.Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang, tuyển chọn 600 bệnh nhân đái tháo đường típ 2 điều trị ngoại trú tại trung tâm Medic thành phố Hồ Chí Minh. Kết quả: Tuổi trung bình của mẫu nghiên cứu là 62 tuổi, trong đó nữ chiếm 76,8%. Thời gian bị bệnh đái tháo đường trung bình là 10 năm. Tỉ lệ đạt mục tiêu HbA1c<7% là 33,7%, đường huyết đói <130mg% là 40,5%. So với bệnh nhân kiểm soát đường huyết kém (HbA1c≥7%), bệnh nhân kiểm soát tốt (HbA1c<7%) có tuổi đời trẻ hơn (p=0,001), thời gian mắc bệnh đái tháo đường ngắn hơn (p<0,001), tỉ số eo/hông thấp hơn (p<0,001), trình độ học vấn cao hơn (p=0.023), hoạt động thể lực nhiều hơn và tuân thủ chế độ ăn tốt hơn (p<0,001). Bệnh nhân phải dùng insulin hoặc sử dụng nhiều loại thuốc viên hạ đường huyết thường kiểm soát đường huyết kém hơn, có giá trị HbA1c cao hơn (P<0,001).Kết luân: Gần 2/3 bệnh nhân đái tháo đường trong nghiên cứu này có HbA1c≥7%. Tỉ lệ này có khuynh hướng gặp nhiều hơn ở bệnh nhân đái tháo đường đã lâu và không tuân thủ những thói quen tốt về lối sống.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Bryant W., Greenfield J. R., et al (2006). “Diabetes guidelines: easier to preach than to practise?”. Med J Aust 185, pp.305- 309.
- Chuang L.M., Tsai S.T.,et al(2002). “The status of diabetes control in Asia a cross-sectional survey of 24317 patients with diabetes mellitus in 1998”. Diabet Med 19, pp.978- 985.
- Faeh D., William J., et al (2007). “Prevalence, awareness and control of diabetes in the Seychelles and relationship with excess body weight”. BMC Public Health 7, pp.163.
- Ford E. S., Li C., et al (2008). “Trends in A1C concentrations among U.S. adults with diagnosed diabetes from 1999 to 2004”. Diabetes Care 31, pp.102-104.
- Goudswaard N, Stolk R.P, et al (2004). “Patient characteristics do not predict poor glycaemic control in type 2 diabetes patients treated in primary care”. European Joural of Epidemiology 19, pp.541-545.
- Guo Xiao-hui, Yuan Li, et al (2012). “A nationwide survey of diabetes education, self-management and glycemic control in patients with type 2 diabetes in China”. Chinese Medical Journal 125, pp.4175-4180.
- Jenssen T. G., Tonstad S., et al (2008). “The gap between guidelines and practice in the treatment of type 2 diabetes A nationwide survey in Norway”. Diabetes Res Clin Pract 80, pp.314-320.
- Mafauzy M (2005). “Diabetes control and complications in private primary healthcare in Malaysia”. Med J Malaysia 60, pp.212-217.
- Orozco-Beltran D., Gil-Guillen V. F., et al (2007). “Control of diabetes and cardiovascular risk factors in patients with type 2 diabetes in primary care. The gap between guidelines and reality in Spain”. Int J Clin Pract 61, pp.909-915.
- Ratsep A., Kalda R. & Lember M (2010). “Meeting targets in type 2 diabetes care contributing to good glycaemic control. A cross-sectional study from a primary care setting in Estonia”. Eur J Gen Pract 16, pp.85-91.
- Rhee S. Y., Kim Y. S., et al(2005). “Diabcare Asia 2001–Korea country report on outcome data and analysis”. Korean J Intern Med 20, pp.48-54.
- Stone M. A, Charpentierph G (2013). “Quality of Care of People With Type 2 Diabetes in Eight European ountries – Findings from the Guideline Adherence to Enhance Care (GUIDANCE) study”. Diabetes Care, pp.1-11.
- Teoh H., Braga M. F., et al (2010). “Patient age, ethnicity, medical history, and risk factor profile, but not drug insurance coverage, predict successful attainment of glycemic targets: Time 2 Do More Quality Enhancement Research Initiative (T2DM QUERI)”. Diabetes Care 33, pp.2558-2560.
- The DCCT Group (1993). “The effect of intensive treatment of diabetes on the development and progression of long-term complications in insulin-dependent diabetes mellitus. The Diabetes Control and Complications Trial Research Group”. N Engl J Med 329, pp.977-986.
- The UKPDS Group (1998). “Intensive blood-glucose control with sulphonylureas or insulin compared with conventional treatment and risk of complications in patients with type 2 diabetes (UKPDS 33). UK Prospective Diabetes Study (UKPDS) Group”. Lancet 352, pp.837-853.
- Worawongprapa O (2008). “Glycemic control in diabetes with metabolic syndrome in community hospital”. J Med Assoc Thai 91, pp.641-647.
- Yokokwa H, Khue N.T, et al (2010). “Diabetes Control among Vietnamese Patients in Ho Chi Minh City: An Observational Cross-Sectional Study”. International Electronic Journal of Health Education 13, pp.1-13.