Khảo sát bề dày lớp nội trung mạc động mạch cảnh trên bệnh nhân đái tháo đường type 2 có tăng huyết áp

KHẢO SÁT BỀ DÀY LỚP NỘI TRUNG MẠC ĐỘNG MẠCH CẢNH TRÊNBỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TYPE 2 CÓ TĂNG HUYẾT ÁP

Trần Thị Trúc Linh, Nguyễn Hải Thủy

ABSTRACT

Carotid artery intima – media thickness (CIMT) in the type 2 diabetic patients with hypertension

Objectives: To measure the intima-media thickness of carotid artery (CIMT)  and to evaluate the correlation between the CIMT with some risk factors and left ventricular  mass index, N-terminal proB-type natriuretic peptide (NT-proBNP) in the type 2 diabetic patients with hypertension. Subjects and Methods: Paraclinical features carotid artery by Doppler ultrasonography and Doppler echocardiography were evaluated in 116 type 2 diabetic patients with  hypertension in a descriptive cross-sectional study. Results: The CIMT in the left was higher than in the right carotid (1.33 ± 0.70 mm vs 1.20 ± 0.68 mm). The IMTc were correlated with age, duration of diabetes, LVMI and NT-proBNP. The most thickness of atherosclerotic plaque  was 1.76 ± 0.52 mm. Conclusions: Intima media thickness was higher significantly in type 2 diabetic patients with hypertension. There were the correlations between IMTc with age, the duration of diabetes and LVMI and NT-proBNP.

Key words: Carotid arteryintima-media thickness (CIMT), diabetic, hypertension.

Chịu trách nhiệm chính: Trần Thị Trúc Linh

Ngày nhận bài: 15.11.2016

Ngày phản biện khoa học: 20.11.2016

Ngày duyệt bài: 1.12.2016

I. ĐẶT VẤN ĐỀ

Sự gia tăng tỷ lệ và phối hợp của hai bệnh lý mãn tính đái tháo đường type 2 (ĐTĐ2) và tăng huyết áp (THA) đã làm tăng nguy cơ biến chứng tim mạch liên quan với xơ vữa động mạch (XVĐM) cao hơn so với các đối tượng khác. Thật vậy, ngay từ những năm đầu thập niên 80, các nhà nghiên cứu về xơ vữa động mạch đã phát hiện phương pháp đo bề dày lớp nội trung mạc động mạch cảnh qua siêu âm giúp phát hiện sớm sự tiến triển của xơ vữa động mạch và đây cũng là một trong những yếu tố nguy cơ không truyền thống tiên đoán nguy cơ bệnh lý mạch vành và mạch não [1]. Và cũng có khá nhiều công trình nghiên cứu về bề dày lớp nội trung mạc động mạch cảnh (IMTc) tiến hành trên bệnh nhân ĐTĐ hoặc THA. Tuy nhiên trong thực hành lâm sàng tại Việt Nam, nhận thâý tần suất bệnh ĐTĐ type 2 kết hợp THA chiếm tỷ lệ khá cao làm thúc đẩy nhanh chóng quá trình xơ vữa động mạch thông qua dấu hiệu bề dầy của lớp nội trung mạc động mạch cảnh và chỉ số khối cơ thất trái. Vì thế, chúng tôi tiến hành đề tài nghiên cứu này với mục tiêu “Khảo sát bề dầy lớp nội trung mạc động mạch cảnh (IMTc) bằng siêu âm và xác định mối liên quan IMTc với chỉ số khối cơ thất trái và NT-proBNP trên bệnh nhân ĐTĐ type 2 có THA.’’

II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Đối tượng :

Nghiên cứu tiến hành trên 116 bệnh nhân ĐTĐ type 2 có THA điều trị tại bệnh viện ĐKTW Cần Thơ  từ tháng10/2013 đến tháng 4/2014.

2.2. Phương pháp nghiên cứu:Mô tả cắt ngang, tiến cứu. Bệnh nhân được tiến hành xét nghiệm sinh hóa, siêu âm Doppler tim và động mạch cảnh ngoài sọ 2 bên khảo sát bề dày lớp nội trung mạc (IMT) và mảng xơ vữa và các thông số siêu âm tim dựa theo phương pháp Pignoli và cộng sự. Xác định IMTc bệnh lý ≥ 0,9 mm nhưng < 1,5 mm và mảng xơ vữa ≥ 1,5 mm.

Theo Hiệp hội siêu âm Hoa Kỳ 2009:

– Phì đại thất trái: LVMI ≥ 95 g/m2/nữ, ≥ 115 g/m2/nam.

Tiêu chuẩn loại trừ: đang bị bệnh lý cấp tính, suy gan, suy thận, không hợp tác nghiên cứu.

III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

3.1. Kết quả bề dầy của lớp nội trung mạc động mạch cảnh (IMTc)

Bảng 3.1. Bề dầy IMTc của bệnh nhân ĐTĐ type 2 có THA

Có sự khác biệt về giá trị trung bình IMTc của động mạch cảnh bên trái và phải ( p < 0,05).

Bảng 3.2: Tỷ lệ dầy IMT và mảng xơ vữa

Tỷ lệ dầy IMTc trong nghiên cứu bên trái, bên phải lần lượt là 76,7%, 63,8% và tỷ lệ mảng xơ vữa là 47,41%, trong đó mảng xơ vữa < 2mm là 60,34%. Mảng xơ vữa dầy nhất là 5,1 mm, mỏng nhất là 1,8 mm. Chiều dài mảng xơ vữa dài nhất 21 mm, ngắn nhất 1,2 mm.

3.2. Liên quan giữa IMTc và một số yếu tố nguy cơ

Bảng 3.3: So sánh một số yếu tố nguy cơ giữa nhóm có và không có dầy IMTc

Tuổi trung bình khác biệt giữa 2 nhóm có và không có dầy IMTc ( p < 0,05). Thời gian phát hiện bệnh ĐTĐ, thời gian phát hiện THA, BMI, vòng bụng, đường huyết lúc đói, đường huyết sau ăn, HbA1C của nhóm có dầy IMTc khác biệt không đáng kể so với nhóm không có dầy IMTc ( p > 0,05).

Bảng 3.4: So sánh IMTc giữa 2 nhóm < 60 tuổi và ≥ 60 tuổi

+ IMTc bên phải, IMTc bên trái, IMTc trung bình khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa hai nhóm tuổi < 60 và  nhóm ≥ 60 tuổi, với p < 0,05.

Bảng 3.5. So sánh tỷ lệ dầy IMTc và mảng xơ vữa giữa 2 nhóm < 60 tuổi và ≥ 60 tuổi

Tỷ số chênh (OR) của nhóm ≥ 60 tuổi dầy IMTc động mạch cảnh bên phải, bên trái cao gấp khoảng 2 – 3 lần so với nhóm còn lại. Tỷ lệ có mảng xơ vữa chung là 47,4%, và có sự khác biệt đáng kể về tỷ lệ huyết khối giữa hai nhóm (p < 0,05). Nguy cơ có mảng xơ vữa ở nhóm ≥ 60 tuổi cao gấp 2,5 lần so với nhóm < 60 tuổi với p< 0,05.

Bảng 3.6: Mối liên quan giữa IMTc và thời gian phát hiện bệnh ĐTĐ

Không có sự khác biệt về tỷ lệ dầy IMTc trái, phải và mảng xơ vữa giữa 2 nhóm bệnh nhân có thời gian mắc bệnh ĐTĐ < 10 năm và ≥ 10 năm, p > 0,05.

IMTc trung bình của 2 nhóm bệnh nhân có thời gian phát hiện bệnh ĐTĐ < 10 năm và ≥ 10 năm không khác biệt với p > 0,05.

4.3. Mối liên quan giữa IMTc trung bình và chỉ số khối cơ thất trái, NT-proBNP

Bảng 3.7: So sánh về LVMI, NT-proBNP giữa nhóm có và không có dầy IMTc

Có khác biệt về giá trị trung bình của LVMI và trung vị NT-proBNP giữa 2 nhóm có và không có dầy IMTc, có ý nghĩa thống kê, với p< 0,05.

Bảng 3.8: Mối liên quan giữa IMTc trung bình với LVMI và NT-proBNP

+ Tỷ lệ phì đại thất trái ở nhóm có dầy IMTc cao hơn và nguy cơ PĐTT ở nhóm có dầy IMTc cũng cao hơn gấp 3 lần so với nhóm không có dầy IMTc, có ý nghĩa thông kê với p < 0,05

+ Tỷ lệ NT-proBNP ≥ 125 pg/ml trong nhóm có dầy IMTc trung bình chiếm tỷ lệ cao hơn so với nhóm không có dầy IMTc, nhưng khác biệt chưa có ý nghĩa thống kê.

Biểu đồ 3.1: Mối liên quan giữa LVMI và IMTc của đối tượng nghiên cứu

Có tương quan tuyến tính giữa LVMI và IMTc với r = 0,233, có ý nghĩa thống kê (p < 0,05).

Tương quan thuận giữa IMTc và log NT-proBNP với r = 0,287, với p < 0,05.

IV. BÀN LUẬN

4.1. Bề dầy lớp nội trung mạc động mạch cảnh (IMTc)

Khảo sát ĐM cảnh 2 bên của nhóm 116 bệnh nhân ĐTĐ type 2 có THA bằng đầu dò siêu âm 7,5MHz ghi nhận kết quả ban đầu như sau:

– Bề dầy trung bình IMTc bên trái của bệnh nhân ĐTĐ type 2 có THA là 1,33 ± 0,70mm dầy hơn so với IMTc bên phải của bệnh nhân là 1,20 ± 0,68 mm, có ý nghĩathống kê với p < 0,05. Kết quả thu được trong nghiên cứu này lớn hơn của một số tác giả khác. Kelly J Hunt và cs (2003), siêu âm ĐMC chung của 66 bệnh nhân tiền ĐTĐ là 0,81mm hay tác giả Naomi Mitsuhashi và cs (2002) ghi nhận IMTc trung bình là 1,27 ±
0,07 mm. Kết quả này cao hơn IMTc trung bình của các nghiên cứu tiến hành trên những bệnh nhân có bệnh mạch vành IMTc trung bình là 0,88 ± 0,18 mm và IMTc lớn nhất 1,01 ± 0,27 mm. Theo tác giả Nguyễn Thị Thu Hương  trên 65 bệnh nhân ĐTĐ type 2 IMT ở ĐM cảnh chung là 0,97 ± 0,18 mm và máng cảnh là 1,16 ± 0,21 mm. Tác giả Lê Nguyễn Thanh Hằng trên 33 bệnh nhân ĐTĐ có BMV, kết quả IMTc trung bình thu được là 1,11 ± 0,07 mm, Nguyễn Hải Thủy trên 243 bệnh nhân có 81 bệnh nhân glucose máu cao, bề dầy IMTc 1,18 ± 0,54 mm. Giải thích kết quả thu được trong nghiên cứu của chúng tôi cao hơn tất cả các tác giả khác đó là do đối tượng nghiên cứu của chúng tôi vừa mắc bệnh ĐTĐ type 2 vừa kết hợp với bệnh lý THA làm tăng nguy cơ gây xơ vữa động mạch. Thật vây, trên 90 bệnh nhân ĐTĐ, 40 ĐTĐ type 2 của TrầnVăn Trung, Nguyễn Đức Công, IMTc bệnh nhân ĐTĐ là 1,39 ± 0,8 mm, so với kết quả của chúng tôi sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (t= – 1,807, p > 0,05). Có sự tương quan chặt chẽ tăng dần giữa IMTc và tuổi của bệnh nhân bắt đầu từ 60 tuổi trở lên ở bệnh nhân ĐTĐ type 2 có THA với hệ số tương quan là r = 0,794 (p<0,05).

Mảng xơ vữa động mạch: Trong mẫu nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ bệnh nhân có xơ vữa động mạch là 47,4% thấp hơn so với một số nghiên cứu khác. Tác giả Nguyễn Hải Thủy (1994-1996) khảo sát 116 bệnh nhân ĐTĐ type 2 tỷ lệ này là 77,6%, hay tác giả Lê Nguyễn Thanh Hằng (2005) tỷ lệ mảng xơ vữa là 81,82%. Giải thích sự khác biệt này có thể do quần thể nghiên cứu khác nhau. Nhóm bệnh nhân chúng tôi thuộc nguy cơ cao tuy nhiên hầu hết các bệnh nhân đều được tái khám và điều chỉnh các yếu tố nguy cơ tương đối khá tốt và tỷ lệ những bệnh nhân mới mắc bệnh ĐTĐ và tuổi bệnh ĐTĐ nhỏ cũng chiếm tỷ lệ khá cao vì thế tỷ lệ MXV thu được thấp hơn so với các tác giả khác.Trong số đó tỷ lệ MXV < 2mm chiếm tỷ lệ khá cao là 60,34% nhiều hơn so với MXV <2mm. Điều này giống như ghi nhận của các tác giả khác cho thấy phần lớn là mảng xơ mỡ là những tổn thương giai đoạn đầu và chúng ta có thể can thiệp điều trị ổn định hay làm thoái lui tình trạng xơ vữa động mạch nhằm ngăn ngừa những biến chứng nguy hiểm do xơ vữa động mạch xảy ra trên bệnh nhân ĐTĐ type 2 có THA.

4.2. Liên quan giữa IMTc và một số yếu tố nguy cơ

– Tuổi: Mối liên quan giữa bề dầy IMTc đã được chứng minh qua nhiều nghiên cứu cho thấy chỉ số này sẽ gia tăng theo tuổi đời. Thật vây, trên những bệnh nhân dầy IMTc ≥ 0,9 mm, tuổi trung bình của nhóm bệnh nhân này là 67,38 ± 10,17 tuổi, cao hơn so với tuổi trung bình của những bệnh nhân chưa có biểu hiện dầy IMTc, có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. Hệ số tương quan của mối quan hệ này r = 0,312, p = 0,0001 < 0,05, rất có ý nghĩa thống kê. Điều này cũng góp phần giải thích nguyên nhân biến chứng tai
biến mạch máu não gia tăng theo tuổi. Qua nghiên cứu, chúng tôi ghi nhận khi so sánh giá trị trung bình IMTc bên phải, bên trái của bệnh nhân ĐTĐ type 2 có THA ≥ 60 tuổi đều cao hơn hẳn so với nhóm bệnh nhân < 60 tuổi, và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. Tỷ lệ dầy IMTc, cũng như tỷ lệ mảng xơ vữa ở nhóm bệnh nhân ĐTĐ type 2 có THA lớn tuổi đều cao hơn có ý nghĩa thống kê và nguy cơ ở nhóm này cao hơn gấp khoảng > 2 lần so với nhóm bệnh nhân ĐTĐ type 2 có THA trẻ tuổi hơn, với p < 0,05.

– Thời gian phát hiện bệnh ĐTĐ: Phần lớn các nghiên cứu cũng như y văn ghi nhận có sự khác biệt và có mối liên quan giữa IMTc của bệnh nhân và thời gian mắc bệnh. Chúng tôi thu được kết quả, thời gian mắc bệnh trung bình của nhóm bệnh nhân ĐTĐ type 2 có THA có dầy IMTc là 6,49 ± 5,18  có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. Tỷ lệ bệnh nhân dầy IMTc phải, trái, cả hai bên cũng như mảng xơ vữa ĐMC chiếm tỷ lệ rất cao ở nhóm bệnh nhân có thời gian mắc bệnh ĐTĐ ≥ 10 năm cao hơn so với nhóm bệnh nhân có thời gian mắc bệnh ĐTĐ <10 năm, tuy nhiên sự khác biệt chưa có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. Bề dày trung bình của IMTc của nhóm bệnh nhân ĐTĐ type 2 có THA có thời gian mắc bệnh ĐTĐ kéo dài ≥ 10 năm là 1,75 ± 0,96 mm so với nhóm bệnh nhân có tuổi bệnh ngắn hơn < 10 năm có IMTc trung bình là 1,42 ± 0,94 mm.

4.3. Liên quan giữa IMTc trung bình và LVMI, NT-proBNP

– IMTc và chỉ số khối cơ thất trái: Trong những năm gần đây, IMTc đã và đang được xem như một dấu chỉ điểm tiên đoán biến chứng mạch vành và mạch máu não với giá trị tương đương với thang điểm Framingham. Trong nghiên cứu của chúng tôi, giá trị trung bình của LVMI khác biệt có ý nghĩa thống kê ở 2 nhóm có và không có dầy IMTc trung bình. Tỷ lệ phì đại thất trái ở nhóm có dầy IMTc cũng cao hơn  và nguy cơ PĐTT cũng cao gấp 3,22 lần so với nhóm không có dầy IMTc, có ý nghĩa thông kê với p < 0,05. Mối tương quan thuận giữa LVMI và IMTc trung bình với hệ số tương quan là r = 0,233, với p < 0,05.

– IMTc và NT-proBNP: Giá trị trung bình của NT-proBNP khác biệt giữa 2 nhóm có và không có dầy IMTc không có ý nghĩa thống kê. Tỷ lệ NT-proBNP > 125 pg/ml ở nhóm có dầy IMTc cao hơn nhưng không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05. Tuy nhiên, vì NT-proBNP có phân phối không chuẩn nên trong nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng log NT-proBNP và nhận thấy có mối tương quan thuận giữa bề dầy nội trung mạc động mạch cảnh trung bình và log NT-proBNP với hệ số tương quan r = 0,287, có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.

V. KẾT LUẬN

– Bề dầy trung bình IMTc bên trái trên 116 bệnh nhân ĐTĐ type 2 có THA là 1,33 ± 0,70 mm dày hơn so với trung bình bên phải của bênh nhân là 1,20 ± 0,68 mm với p <0,05. Có sự tương quan thuận giữa IMTc và tuổi của bệnh nhân.

– IMTc trung bình có liên quan dến những yếu tố nguy cơ bao gồm tuổi, thời gian mắc bệnh ĐTĐ, NT-proBNP và chỉ số khối cơ hất trái.

TÓM TẮT

Mục tiêu:  Khảo sát bề dầy lớp nội trung mạc động mạch cảnh bằng siêu âm với một số yếu tố nguy cơ tim mạch, chỉ số khối cơ thất trái và NT-proBNP trên bệnh nhân ĐTĐ type 2 có THA. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: bệnh nhân ĐTĐ type 2 có THA được xét nghiệm sinh hóa và siêu âm Doppler tim và động mạch cảnh 2 bên khảo sát bề dầy lớp nội trung mạc (IMTc) và kích thước mảng xơ vữa. Kết quả:Giá trị trung bình IMTc trái 1,33 ± 0,70 mm dày hơn so với bên phải 1,20 ± 0,68 mm.
IMTc nhóm  ≥ 60 tuổi dày hơn so nhóm <60 tuổi (1,61 ± 1,02 mm so với 1,24 ± 0,75, p< 0,05). Nguy cơ dầy IMTc và xơ vữa ở nhóm ≥ 60 tuổi cao gấp  2 lần so với nhóm <60 tuổi (p < 0,05). Có sự tương quan thuận giữa IMTc và tuổi của bệnh nhân. Nguy cơ phì đại thất trái cao gấp 3,22 lần ở nhóm có dầy IMTc. Có mối tương quan thuận giữa IMTc trung bình với LVMI và log NT-proBNP, có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.Kết luận: Có sự gia tăng bề dầy IMTc của bệnh nhân ĐTĐ type 2 có THA và mối liên quan giữa IMTc với tuổi, thời gian phát hiện bệnh ĐTĐ, LVMI và NT-proBNP.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Nguyễn Hải Thủy (2011), Xơ vữa động mạch cảnh ở người cao tuổi, Tạp chí Tim mạch học Việt Nam số 59, Kỷ yếu hội nghị Tim mạch Miền Trung- Tây Nguyên lần thứ VI, trang 564-569.
  2. Lê Nguyễn Thanh Hằng, Nguyễn Hải Thủy (2005), Khảo sát bề dày lớp nội trung mạc bằng siêu âm Doppler ở bệnh nhân đái tháo đường type 2 có bệnh mạch vành, Luận văn thạc sĩ y học, trường Đại học Y Dược Huế.
  3. Nguyễn Hải Thủy (1996), Nghiên cứu tổn thương thành động mạch cảnh và động mạch hai chi dưới ở bệnh nhân đái tháo đường không phụ thuộc insulin bằng siêu âm, Luận án phó tiến sĩ Y học, Trường Đại học Y Hà Nội.
  4. Trần Văn Trung, Nguyễn Đức Công (2011), Nghiên cứu mối liên quan giữa biến đổi hình thái và chức năng động mạch cảnh chung trên siêu âm Doppler với các yếu tố nguy cơ đột quỵ nhồi máu não, Tạp chí Tim mạch học Việt Nam số 59, Kỷ yếu hội nghị Tim mạch Miền Trung- Tây Nguyên lần thứ VI, trang 955-963.
  5. Đồng Hoàng Thọ, Nguyễn Hải Thủy (2011), Khảo sát tổn thương động mạch cảnh bằng siêu âm Doppler ở bệnh nhân tăng huyết áp tại bệnh viện đa khoa khu vực ngã bảy, , Tạp chí Tim mạch học Việt Nam số 59, Kỷ yếu hội nghị Tim mạch Miền Trung- Tây Nguyên lần thứ VI, trang 888-894.
  6. Denes Pall, Georgios Settakis (2003). Incresed Common Cartotid Artery Intima Media Thickness in Aldolescent Hypertension, Cerebrovasc Dis; 15: 167-172.
  7. Lee EJ, Kim HJ, Bae JM, Kim JC, Han HJ, Park CS (2007), Relevance of common carotid intima-media thickness and carotid plaque as risk factors for ischemic Stroke  in  patients  with  type 2  diabetes  mellitus.  AJNR  Am  J Neuroradiol, 28, pp.916-919.
  8. Andreas Melidoms, Ioannis A(2003), Prognostic value of the carotid artery intima media thickness for the presence and severity of coronary artery disease in type 2 diabetic patients, Observations, Medline.
  9. Jorge Plutzky (2003), Inflammation and metabolic syndrome release ofmeditor and inflammation marker, Medline.
  10. Kelly J Hunt, Ken Williams (2003), Evaluated carotid artery Intima-MediaThickness levels in individuals who subsequently develop type 2 diabetess,Atherosclerosis, thrombosis and vascular biology, 23, pp.1854-1850.
Print Friendly, PDF & Email

About Hội Nội tiết & Đái tháo đường Miền Trung

Check Also

Khảo sát mối liên quan giữa vitamin D huyết thanh và một số các yếu tố liên quan đến tổn thương thận mạn ở bệnh nhân bệnh thận đái tháo đường

KHẢO SÁT MỐI LIÊN QUAN GIỮAVITAMIN D HUYẾT THANH VÀ MỘT SỐ CÁC YẾU TỐ …