Mật độ xương ở bệnh nhân Basedow mới phát hiện

MẬT ĐỘ XƯƠNG Ở BỆNH NHÂN BASEDOW MỚI PHÁT HIỆN

    BoutsaBa Silathod, Đỗ Trung Quân

Đại học Y Hà Nội

ABSTRACT

Bone mass density in newly diagnosed patients with Graves’ disease

Object: To assess bone mass density in newly diagnosed Graves’ disease. Subjects: 60 patientswith Graves’ disease  and 50 normal people that visited at outpatient department for required service, Bạch Mai hospital, from October 2017 to July 2018. Methods: Cross-sectional study. Results: 6,66% of patients had osteoporosis at neck of thigh bone and this rate was 3,33% at spine. The bone mass density in new diagnosed Graves’ disease was lower than normal people. At neck of thigh bone: bone mass density in Graves’ disease was – 0,89 ± 1,07 (T – score) but only – 0,58 ± 1,06 (T – score) in control group (p > 0,05). At spine: bone mass density in Graves’ disease was – 0,35 ± 1,22 (T – score) and in control group was 0,068 ± 1,06 (T – score) (p < 0,05). There was no correlation between thyroid volume and bone mass density.

TÓM TẮT

Mục tiêu: Nhận xét mật độ xương ở bệnh nhân Basedow mới phát hiện. Đối tượng và phương pháp: 60 bệnh nhân Basedow và 50 người chứng được khám tại khoa khám chữa bệnh theo yêu cầu, bệnh viện Bạch mai, từ tháng 10/2017 đến tháng 7/2018. Nghiên cứu tiến cứu mô tả cắt ngang. Kết quả và bàn luận: Tỷ lệ bệnh nhân có loãng xương đo ở vị trí cổ xương đùi chiếm 6,66% (4 bệnh nhân); trong khi đó ở vị trí cột sống thắt lưng chiếm 3,33% (2 bệnh nhân). Mật độ xương trung bình của nhóm mắc Basedow thấp hơn so với nhóm chứng. Khi đo ở vị trí cổ xương đùi: Mật độ xương ở nhóm Basedow là – 0,89 ± 1,07 (T – score) còn ở nhóm chứng là – 0,58 ± 1,06 (T – score) (p > 0,05). Khi đo ở vị trí cột sống thắt lưng: Mật độ xương ở nhóm Basedow là – 0,35 ± 1,22 (T – score) còn ở nhóm chứng là 0,068 ± 1,06 (T – score) (p < 0,05). Không có mối tương quan giữa độ bướu và phân loại mật độ xương.

Chịu trách nhiệm chính: Đỗ Trung Quân

Ngày nhận bài: 01/4/2019

Ngày phản biện khoa học: 16/4/2019

Ngày duyệt bài: 30/4/2019

1.ĐẶT VẤN ĐỀ

Bệnh Basedow (hay còn gọi là bệnh Graves) là một bệnh nội tiết cường chức năng tuyến giáp hay gặp nhất. Bệnh được đặc trưng với tuyến giáp to lan tỏa, nhiễm độc hormon giáp, bệnh mắt và thâm nhiễm hốc mắt, đôi khi có thâm nhiễm da[1]. Bệnh xảy ra ở mọi độ tuổi, thường gặp nhất là độ tuổi 20-40. Vào những năm cuối thế kỷ XX, trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu về mật độ xương ở bệnh nhân cường giáp đã chứng minh hormon tuyến giáp tăng cao và kéo dài dẫn đến tình trạng mất xương và loãng xương [2]. Cường giáp nếu không được điều trị sẽ gây ra nhiều biến chứng nguy hiểm trong đó có loãng xương. Loãng xương làm cho xương dễ gẫy, các biểu hiện của bệnh loãng xương thường kín đáo, khi trọng lượng xương mất khoảng 30 -40% mới có dấu hiệu lâm sàng như: đau cột sống, vẹo cột sống hay gẫy xương …, gây giảm chất lượng cuộc sống, giảm vận động và tốn kém trong điều trị.

Loãng xương do cường giáp là một bệnh rối loạn chuyển hóa xương thường gặp. Vì vậy phát hiện sớm loãng xương ở những bệnh nhân cường giáp để có biện pháp điều trị và phòng ngừa là rất quan trọng. Cho tới nay, đã có một số nghiên cứu về đánh giá mật độ xương ở bệnh nhân nữ mắc bệnh Basedow ở Việt Nam song chưa có nghiên cứu nào đo mật độ xương bằng phương pháp DEXA ở bệnh nhân Basedow mới phát hiện. Vì vậy, nghiên cứu này được thực hiện với mục tiêu nhận xét mật độ xương ở bệnh nhân Basedow mới phát hiện.

2.ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Đối tượng nghiên cứu

110 bệnh nhân có độ tuổi từ 20 – 50 cả nam và nữđến khám bệnh và khám sức khỏe định kỳ tại Bệnh viện Bạch Mai từ tháng 10/2017 đến tháng 7/2018. Các đối tượng này được chia thành 2 nhóm:

  • Nhóm bị Basedow (nhóm bệnh):
  • Bệnh nhân được chẩn đoán xác định Basedow theo Bộ trưởng Bộ y tế năm 2015 (hướng dẫn chẩn đoán và điều trị bệnh nội tiết – chuyển hóa).

Tuy bệnh nhân Basedow có nhiều triệu chứng lâm sàng, cận lâm sàng song chẩn đoán xác định dựa vào một số triệu chứng chủ yếu: Bướu giáp to lan tỏa (hoặc hỗn hợp), nhịp tim nhanh thường xuyên, lồi mắt, mệt mỏi, nóng bức ra nhiều mô hôi, ăn nhiều, uống nhiều, sút cân, thay đổi tính tình, dễ cáu gắt, rối loạn giấc ngủ, yếu hoặc liệt cơ chu kỳ, run tay đầu ngón. Xét nghiệm: tăng nồng độ hormone tuyến giáp FT4, giảm TSH, TRAb dương tính hoặc tăng nồng độ.

  • Các bệnh nhân này được chẩn đoán Basedow mới phát hiện chưa được dùng thuốc bình giáp bao giờ.
  • Bệnh nhân đồng ý tham gia vào nghiên cứu
  • Đang ở trong giai đoạn nhiễm độc giáp
  • Nhóm không bị Basedow (nhóm chứng):

-Bệnh nhân khỏe mạnh đến khám sức khỏe định kỳ tại khoa khám bệnh theo yêu cầu Bệnh viện Bạch Mai. Khám lâm sàng không có triệu chứng bệnh lý Basedow và các bệnh lý khác. Cận lâm sàng: sinh hóa máu, công thức máu, hormone tuyến giáp bình thường.Bệnh nhân đồng ý tham gia vào nghiên cứu.

Tiêu chuẩn loại trừ .

Các bệnh nhân bị Basedow đã được điều trị thuốc kháng giáp trạng.

  • Bệnh nhân có các yếu tố nguy cơ ảnh hưởng đến loãng xương: Sử dụng các thuốc glucocorticoid kéo dài với liều cao, Heparin, phenobacbital. Bất động lâu, mãn kinh rất sớm trước 40 tuổi, cắt buồng trứng, cắt dạ dày
  • Mắc các bệnh nội khoa khác kèm theo: Suy thận mạn tính, suy gan mạn tính, bệnh đa u tủy xương, bệnh cường cận giáp, đái tháo đường phụ thuộc insulin, hội chứng Cushing, ung thư di căn, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính …

–  Bệnh nhân không đồng ý tham gia nghiên cứu.

2.2. Phương pháp nghiên cứu.

Nghiên cứu được tiến hành từ tháng 10/2017 đến tháng 7/2018 tại Bệnh viện Bạch Mai

2.2.1.Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu tiến cứu mô tả cắt ngang

2.2.2.Cỡ mẫu: Áp dụng cỡ mẫu thuận tiện

2.2.3. Phương pháp tiến hành

Các bệnh nhân đều được hỏi bệnh và thăm khám lâm sàng: Khai thác thông tin chung. Đo mạch,huyết áp, khai thác tiền sử gia đình và bản thân.

Bệnh nhân được đo chiều cao, cân nặng,tính chỉ số khối cơ thể BMI (Body Mass Index).Khám phát hiện các triệu trứng lâm sàng, cận lâm sàng của Basedow. Xét nghiệm: FT4, TSH, TRab

Tất cả các bệnh nhân đều được đo mật độ xương vùng cột sống thắt lưng L1-L4 và cổ xương đùi theo phương pháp hấp thụ tia X năng lượng kép (DEXA) bằng máy Hologic Explorer của Mỹ.

Đánh giá kết quả đo mật độ xương theo tiêu chuẩn LX của WHO 1994:

– BMD bình thường: T – score ≥ -1:  tức là BMD của đối tượng bằng và trên -1 độ lệch chuẩn (ecart-type) so với giá trị trung bình của người trưởng thành trẻ tuổi.

– Giảm mật độ xương: -1 > T – score > -2,5: khi BMD từ – 1 đến – 2,5 độ lệch chuẩn so với giá trị trung bình của người trưởng thành trẻ tuổi.

– Loãng xương: T – score ≤ -2,5: khi BMD bằng và dưới và ngưỡng cố định là – 2,5, độ lệch chuẩn so với giá trị trung bình của người trưởng thành trẻ tuổi, tại bất cứ vị trí nào của xương.

– Loãng xương nặng: T – score  ≤ – 2,5 và có một hoặc nhiều gẫy xương.

2.2.4. Phương pháp xử lý số liệu: xử lý bằng phần mềm SPSS 16.0 

 3.KẾT QUẢ

3.1.Phân bố đối tượng nghiên cứu theo nhóm tuổi.

Bảng 3.1. Phân bố độ tuổi của đối tượng nghiên cứu

Nhận xét: Độ tuổi chiếm nhiều nhất ở nhóm mắc Basedow là từ 20 – 29 tuổi có 36 bệnh nhân chiếm 60%; độ tuổi này ở nhóm chứng (nhóm không mắc bệnh) có 17 bệnh nhân chiếm 34%. Cả 2 nhóm không có trường hợp nào lớn hơn bằng 50 tuổi. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.

3.2. Phân bố giới tính của đối tượng nghiên cứu

Bảng 3.2. Phân bố giới tính của đối tượng nghiên cứu

Nhận xét: Sự phân bố về giới ở cả nhóm bệnh và nhóm chứng chủ yếu là ở giới nữ. Giới nữ ở nhóm bệnh chiếm 73,33% và nhóm chứng chiếm 84%, sự khác biệt là không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05.

3.3. Tuổi, chiều cao, cân nặng trung bình của đối tượng nghiên cứu

Bảng 3.3. Trung bình tuổi, chiều cao, cân nặng của đối tượng nghiên cứu

Nhận xét: Độ tuổi trung bình của nhóm chứng là 41,52 ± 6,85 cao hơn so với nhóm bệnh là 37,43 ± 9,58 (p < 0,05). Chiều cao trung bình của nhóm chứng là 156,64 ± 6,01cm thấp hơn so với nhóm bệnh là 159,11 ± 6,76cm (p < 0,05). Cân nặng trung bình của nhóm chứng là 53,24 ± 7,09 kg cao hơn so với nhóm bệnh là 49,85 ± 7,24 kg (p < 0,05). BMI trung bình của nhóm chứng là 21,68 ± 2,71 cao hơn so với nhóm bệnh là 19,66 ± 2,28 (p < 0,01).

3.4.Mật độ xương và tỷ lệ loãng xương.                          

Bảng 3.4. Phân loại mật độ xương theo T-score

Nhận xét: Tỷ lệ bệnh nhân có loãng xương đo ở vị trí cổ xương đùi là 4 bệnh nhân chiếm 6,66%; trong khi đó ở vị trí cột sống thắt lưng là 2 bệnh nhân chiếm 3,33%; tỷ lệ không loãng xương đo ở cả 2 vị trí cổ xương đùi và cột sống thắt lưng đều trên 60%.

3.5.Giá trị trung bình của mật độ xương 

Bảng 3.5.Giá trị trung bình MĐX

Nhận xét: Mật độ xương trung bình của nhóm mắc Basedow thấp hơn so với nhóm chứng. Khi đo ở vị trí cổ xương đùi: Mật độ xương ở nhóm Basedow là – 0,89 ± 1,07 (T – score) còn ở nhóm chứng là – 0,58 ± 1,06 (T – score) (p > 0,05). Khi đo mật độ xương ở vị trí cột sống thắt lưng: Mật độ xương ở nhóm Basedow là – 0,35 ± 1,22 (T – score) còn ở nhóm chứng là 0,068 ± 1,06 (T – score) (p < 0,05).

3.6.Đặc điểm độ bướu giáp 

Bảng 3.6. Độ to của bướu giáp với mật độ xương được đo ở vị trí cổ xương đùi

Nhận xét: So sánh tìm mối tương quan giữa độ bướu và phân loại mật độ xương thấy sự khác biệt giữa các tỷ lệ này không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05.

4. BÀN LUẬN

4.1.Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu.

Độ tuổi chiếm nhiều nhất ở nhóm mắc Basedow là từ 20 – 29 tuổi có 36 bệnh nhân chiếm 60%; trong khi đó ở độ tuổi này ở nhóm chứng (nhóm không mắc bệnh Basedow) có 17 bệnh nhân chiếm 34%; ở nhóm chứng độ tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất là 30 – 39 tuổi chiếm 56%; cả 2 nhóm không có trường hợp nào lớn hơn bằng 50 tuổi. Khi so sánh tìm sự khác biệt về độ tuổi của nhóm bệnh và nhóm chứng; ta thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. Độ tuổi trung bình của nhóm chứng là 41,52 ± 6,85năm cao hơn so với nhóm bệnh là 37,43 ± 9,58năm; sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. So sánh kết quả nghiên cứu của chúng tôi với kết quả nghiên cứu của Mai Thị Minh Tâm và cộng sự (2002) cho thấy sự tương đồng về độ tuổi trung bình của nhóm Basedow là 35,1 ± 7,7 năm [3].

Sự phân bố về giới ở cả nhóm bệnh và nhóm chứng chủ yếu là ở giới nữ; với nhóm bệnh chiếm 73,33% và nhóm chứng chiếm 84%; trong khi đó nam giới nhóm bệnh chiếm 26,67% và nhóm chứng chiếm 16%; sự khác biệt về tỷ lệ giới không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05.

Chiều cao trung bình của nhóm chứng là 156,64 ± 6,01cm thấp hơn so với nhóm bệnh là 159,11 ± 6,76cm; sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. Kết quả này cao hơn không đáng kể so với kết quả cuả một số nghiên cứu.  Kết quả nghiên cứu của Mai Thị Minh Tâm và cộng sự (2002): chiều cao trung bình ở nhóm chứng là 155,5 ± 4,6cm và ở nhóm bệnh là 154,5 ± 4,7cm [3]. Nghiên cứu của Ngô Thị Mai Xuân và cộng sự (2007) cho thấy chiều cao trung bình của nhóm chứng là 153,16 ± 17,11cm và chiều cao trung bình của nhóm bệnh là 155,8 ± 5,2cm. Sự khác biệt này là có ý nghĩa thống kê với p < 0,01 [4].

Trong nghiên cứu của chúng tôi, cân nặng trung bình của nhóm chứng là 53,24 ± 7,09kg cao hơn so với nhóm bệnh là 49,85 ± 7,24kg; sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. Kết quả này có cao hơn so với kết quả nghiên cứu của Mai Thị Minh Tâm và cộng sự (2002) khi tác giả chỉ ra cân nặng trung bình của nhóm Basedow là 43,7 ± 5,3kg [3]. Cũng so sánh với kết quả của Ngô Thị Mai Xuân và cộng sự (2007) thì kết quả của chúng tôi là thấp hơn khi tác giả chỉ ra cân nặng trung bình của nhóm chứng là 56,66 ± 15,98kg và của nhóm bệnh là 53,61 ± 7,4kg và sự khác biệt là có ý nghĩa thống kê với p < 0,01 [4]. Tuy nhiên, đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là những bệnh nhân nam và nữ giới mắc bệnh Basedow còn của các tác giả chỉ làm trên đối tượng là nữ giới, do vậy có thể dẫn tới những sự khác biệt này.

BMI trung bình của nhóm chứng là 21,68 ± 2,71 cao hơn so với nhóm bệnh là 19,66 ± 2,28. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p < 0,01. Kết quả này của chúng tôi cao hơn so với kết quả nghiên cứu của Mai Thị Minh Tâm và cộng sự (2002) ở bệnh nhân nữ Basedow tại Bệnh viện Bạch Mai với BMI trung bình của nhóm bệnh là 18,3 ± 2,1 [3] và thấp hơn không đáng kể so với kết quả nghiên cứu của Ngô Thị Mai Xuân và cộng sự (2007) với BMI của nhóm chứng là 23,18 ± 4,32 và BMI của nhóm bệnh là 22,1 ± 2,07 [4].

4.2. Mật độ xương và tỉ lệ loãng xương

4.2.1. Mật độ xương và tỉ lệ loãng xương

Tỷ lệ bệnh nhân có loãng xương đo ở vị trí cổ xương đùi là 4 bệnh nhân chiếm 6,66%; trong khi đó đo mật độ xương theo T – score ở vị trí cột sống thắt lưng là 2 bệnh nhân chiếm 3,33%; tỷ lệ không loãng xương đo ở cả 2 vị trí cổ xương đùi và cột sống thắt lưng đều trên 60%. So sánh với kết quả nghiên cứu của Cấn Xuân Quý và cộng sự (2011): tại vị trí cột sống thắt lưng có 37,04% bệnh nhân bị loãng xương; 32,1% bệnh nhân không bị loãng xương và tại vị trí cổ xương đùi có 22,22% bệnh nhân bị loãng xương và 32,1% bệnh nhân không bị loãng xương [5]. Như vậy ở kết quả nghiên cứu của chúng tôi tỷ lệ bệnh nhân bị loãng xương tại hai vị trí cột sống thắt lưng và cổ xương đùi thấp hơn so với của tác giả, lý giải điều này có thể là do sự khác biệt về đối tượng nghiên cứu: tác giả lựa chọn đối tượng là những bệnh nhân viêm khớp dạng thấp và trong nghiên cứu của chúng tôi là bệnh nhân Basedow. Trong nghiên cứu này tác giả cũng chỉ ra rằng có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến mật độ xương của bệnh nhân viêm khớp dạng thấp như: ảnh hưởng của các yếu tố viêm, sự giảm hoạt động do tình trạng bệnh, thay đổi nội tiết liên quan đến tình trạng mãn kinh, tình trạng dinh dưỡng, sự giảm trọng lượng do bệnh và sử dụng thuốc nhất là glucocorrticoid [5]. Trong nghiên cứu của Ngô Thị Mai Xuân và cộng sự (2007) thì tỷ lệ loãng xương đùi của chúng tôi có tương đồng nhưng tỷ lệ loãng xương cột sống thắt lưng thì thấp hơn [4]. Điều này có thể lý giải là do đối tượng nghiên cứu của tác giả khác so với đối tượng nghiên cứu của chúng tôi. Cũng trong nghiên cứu của chúng tôi có thể thấy tỷ lệ loãng xương ở cổ xương đùi là lớn hơn so với cột sống thắt lưng.

Qua nhiều nghiên cứu đã tiến hành, chúng tôi thấy nhiều tác giả cũng nhận định rằng khối lượng xương giảm và loãng xương ở bệnh nhân Basedow. Fraser và cộng sự (1971) thấy rằng khối lượng xương giảm ở bệnh nhân cường giáp không được điều trị kháng giáp [6]. Campos và cộng sự (1993) thấy rằng ở bệnh nhân cường giáp, đo mật độ xương ở cột sống, cổ xương đùi và xương gót đều thấp hơn so với nhóm chứng [7]. Diamond (1994) nghiên cứu 15 bệnh nhân mắc Basedow trong đó có 6 bệnh nhân ở thời kỳ tiền mãn kinh và 9 bệnh nhân ở thười kỳ sau mãn kinh cho thấy có sự mất xương ở cột sống và cổ xương đùi [8]. Năm 1994, Nagasaka và cộng sự nghiên cứu trên 10 bệnh nhân mắc bệnh Basedow gồm 7 nam và 3 nữ, tuổi trung bình 39,3 ± 2,9 và điều trị với thuốc kháng giáp. Biểu hiện xương được đánh giá bằng chụp xương bàn tay và đo mật độ xương tại cột sống. Kết quả trong nghiên cứu này, tác giả thấy có sự hủy hoại xương và ở xương bàn tay có các khía vỏ xương [9]. Năm 1997, Gomez so sánh mật độ xương đo bằng hai phương pháp DEXA và QUS ở 24 phụ nữ mắc bệnh Basedow đo mật độ xương ở cột sống, cổ xương đùi và xương gót. Kết quả thấy rằng cả ba thông số của siêu âm gồm BUA, SOS và SI ở nhóm Basedow thấp hơn so với nhóm chứng một cách có ý nghĩa. Kết quả tương tự khi quan sát mật độ xương ở cột sống, cổ xương đùi [10]. Jodar (1997) nghiên cứu trên 127 bệnh nhân cường giáp đo mật độ xương ở cột sống L2 – L4, cổ xương đùi và tam giác Wards bằng phương pháp DEXA nhận thấy mật độ xương giảm so với nhóm chứng [11].

Tác giả Mai Thị Minh Tâm (2002) đã đưa ra nhận đinh: các nghiên cứu về mật độ xương ở bệnh nhân cường giáp đều cho rằng có sự mất xương và mất xương ở mọi vị trí như cột sống, cổ xương đùi, xương gót và xương cẳng tay [3]. Bằng các phương pháp đánh giá tình trạng loãng xương, các tác giả thấy rằng tỷ lệ loãng xương ở bệnh nhân Basedow phụ thuộc và phương pháp đánh giá loãng xương và mức độ nhiễm độc giáp. Năm 1972, Meunier quan sát 187 bệnh nhân cường giáp trên hình ảnh Xquang thấy tỷ lệ loãng xương là 8% [12]. Chính vì vậy đo mật độ xương cho bệnh nhân Basedow là vô cùng cần thiết để phát hiện giảm mật độ xương và loãng xương, từ đó đưa ra các biện pháp dự phòng và điều trị cho người bệnh.

4.2.2. Giá trị trung bình của mật độ xương

Mật độ xương trung bình của nhóm mắc Basedow thấp hơn so với nhóm chứng; cụ thể khi đo ở vị trí cổ xương đùi; mật độ xương ở nhóm Basedow là – 0,89 ± 1,07 (T – score) còn ở nhóm chứng là – 0,58 ± 1,06 (T -score) sự khác biệt của hai nhóm này không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05. Khi đo mật độ xương ở vị trí cột sống thắt lưng; mật độ xương ở nhóm Basedow là – 0,35 ± 1,22 (T – score) còn ở nhóm chứng là 0,068 ± 1,06 (T -score) sự khác biệt của hai nhóm này có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. Trong nghiên cứu của Ngô Thị Mai Xuân và cộng sự (2007) tác giả cũng chỉ ra rằng mật độ xương trung bình cột sống thắt lưng, xương đùi của nhóm bệnh thấp hơn nhóm chứng một cách có ý nghĩa thống kê với p < 0,01 [4]. Tác giả Trịnh Xuân Tráng và cộng sự (2014) trên bệnh nhân nữ Basedow tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Phú Thọ cũng phát hiện mật độ xương cột sống thắt lưng ở nhóm bệnh thấp hơn nhóm chứng và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p < 0,001 [6]. Tuy kết quả nghiên cứu của chúng tôi không có ý nghĩa thống kê, nhưng ở những bệnh nhân bị bệnh Basedow có mật độ xương trung bình thấp hơn so với nhóm không bệnh. Điều này có thể đặt ra giả thiết rằng có thể bệnh Basedow là nguyên nhân dẫn đến loãng xương và do vậy khi đo mật độ xương trung bình thì ở những bệnh nhân thuộc nhóm bệnh sẽ có giá trị trung bình thấp hơn so với nhóm chứng do họ bị loãng xương và giảm mật độ xương.

4.2.3. Đặc điểm độ bướu giáp

Kết quả độ to của bướu giáp với mật độ xương được đo ở vị trí cổ xương đùi cho thấy ở những bệnh nhân giảm mật độ xương, độ bướu độ I là cao nhất chiếm 55%, độ II chiếm 35% và thấp nhất là độ III chiếm 10% trong khi đó ở những bệnh nhân loãng xương có tỷ lệ độ bướu độ I và độ II ngang bằng nhau là 50% và không có bệnh nhân nào loãng xương có độ bướu giáp độ III. So sánh tìm mối tương quan giữa độ bướu và phân loại mật độ xương; nhận thấy sự khác biệt giữa các tỷ lệ này không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05. Trong nghiên cứu của Trịnh Xuân Tráng và cộng sự (2014) trên bệnh nhân nữ Basedow tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Phú Thọ, tác giả cũng phát hiện có 45,8% bệnh nhân loãng xương có bướu giáp to độ II song không có mối liên quan giữa độ to của bướu giáp với tình trạng mật độ xương ở bệnh nhân mắc Basedow [13].

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Đỗ Trung Quân, Nguyễn Thị Hà (2000). Một số nhận xét đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của Basedow.Tạp chí Y Học, số 11, trang. 96 -98.
  2. Kanis JA (2002), Diagnosis of osteoporosis and assessment of fracture risk, The Lancet. 359 (9321):p11929-1936.
  3. Mai Thị Minh Tâm (2002), Nghiên cứu mật độ xương ở bệnh nhân nữBasedow tại Bệnh viện Bạch Mai, Luận văn tốt nghiệp Bác sỹ Chuyên khoa II, Trường Đại học Y Hà Nội.
  4. Ngô Thị Mai Xuân và cộng sự (2007), Nhận xét mật độ xương ở bệnh nhân nữ đái tháo đường typ 2 và các yếu tố liên quan, Luận văn Bác sỹ Chuyên khoa II, Trường Đại học Y Hà Nội.
  5. Cấn Xuân Quý và cộng sự (2011), Nghiên cứu mật độ xương ở bệnh nhân viêm khớp dạng thấp, Luận văn Thạc sỹ Y học, Trường Đại học Y Hà Nội.
  6. Fraser SA, Smith DA, Anderson JB, Wilson GM (1971). “Osteoporosis and fractures following thyrotoxicosis”. The Lancet, 981-983.
  7. Campos P, Munoz T (1993). “Bone mas in females with different thyroid disorder: influence of menopausal status”. Bone Miner, 21(1), 1-8.
  8. Diamond T, Vine J and et al (1994). “Thyrotoxic bone disease in women: a potentially reversible disorder”. Thyroid. Summer; 4(2), 143-144.
  9. Nagasaka S, Sugimoto H and et al (1994). “Antithyroid therapy improves bony manifestations and bone metabolic markers in patients with Graves’ thyrotoxicosis”. Ann Intern Med Jan 1; 120(1), 8-11.
  10. Gomez Acotto C, Schotz AM and et al (1997). “Hyper thyroidism influences ultrasonores bone measurement on the os calcis”. Clin Endocrinol, 47(3), 279-35.
  11. Jordar E, Munoz-Torres M and et al (1997). “Bone loss in hyperthyriod patients and in former hyperthyriod patients controlled on medical therapy: influence of aetiology and menopaus”. J Clin Endocrinol Metab, 83(3), 753-9.
  12. Meunier PJ, Bianchi (1972). “Le retentissement osseux des hyperthyroides”. Rev-Rhum, 39, 19-32.

About Hội Nội tiết & Đái tháo đường Miền Trung

Check Also

Tình trạng suy dinh dưỡng cà một số yếu tố liên quan của người bệnh điều trị tại khoa Hồi sức tích cực – Chống độc bệnh viện Đa khoa tỉnh Tiền Giang năm 2022

TÌNH TRẠNG SUY DINH DƯỠNG VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN CỦA NGƯỜI BỆNH …