Nghiên cứu Đái tháo đường típ Lada trong 156 trường hợp đái tháo đường không thừa cân, béo phì tuổi ≥ 35

NGHIÊN CỨU ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TÍP LADA TRONG 156 TRƯỜNG HỢP ĐÁI THÁO ĐƯỜNG KHÔNG THỪA CÂN, BÉO PHÌ TUỔI ≥ 35

 

Trần Hữu Dàng, Nguyễn Thị Thu Mai

Trường Đại Học Y Dược Huế- Bệnh viện Hoàn Mỹ Thành Phố Hồ Chí Minh

 


Abstract

The prevalence of individuals with latent autoimmune diabetes in adults (LADA) among non overweight and obesity diabetic patients is unknown. Hence, the aim of this study was to determine the prevalence of LADA in non overweight and obesity population of diabetic patients.

Research design and methods: A cross-sectional study in 156 non overweight and obesity population of diabetic patients. Clinical data were obtained and a blood sample taken to measure autoantibodies glutamic acid decarboxylase antibodies (GADAb).

Results: There are 14,10% patients who were diagnosed LADA in 156 non overweight and obesity diabetic case.

I. ĐẶT VẤN ĐỀ

Đái tháo đường (ĐTĐ) típ LADA được đề cập đến trong tạp chí nội tiết như một mảng quan trọng của đái tháo đường. LADA còn gọi là đái tháo đường típ 1,5, là một típ đái tháo đường có tính chất tự miễn như típ 1, đặc trưng với quá trình huỷ hoại tế bào beta của tụy nội tiết nhưng khởi bệnh ở người lớn trưởng thành, bệnh tiến triển chậm đến lúc phụ thuộc insulin gần như hoàn toàn. Đặc điểm nổi bật của ĐTĐ thể LADA là chức năng tế bào beta của tụy nội tiết tại thời điểm chẩn đoán còn khá tốt nên đường huyết kiểm soát tốt bằng chế độ ăn kiêng, tập thể dục và thuốc viên hạ đường huyết nhưng nhanh chóng lệ thuộc insulin sau vài năm vì vậy dễ chẩn đoán nhầm với ĐTĐ típ 2, nếu không làm thêm xét nghiệm tìm kháng thể GAD và ICA thì khó chẩn đoán xác định.

Ở Việt Nam trong thực hành chúng tôi nhận thấy khá nhiều bệnh nhân ĐTĐ lớn tuổi thuộc dạng gầy, những bệnh nhân này không thuộc nhóm hội chứng chuyển hóa, như vậy có tồn tại nhóm bệnh nhân ĐTĐ dạng LADA trong quần thể này hay không. Hiện tại ở nước ta việc xác định thể ĐTĐ típ LADA chưa được chú trọng, đặc biệt bệnh nhân ĐTĐ lớn tuổi và không béo phì. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm xác định tỉ lệ ĐTĐ típ LADA ở bệnh nhân ĐTĐ không thừa cân, béo phì ở tuổi ≥ 35.

Mục tiêu nghiên cứu

Xác định tỉ lệ đái tháo đường típ LADA ở bệnh nhân ĐTĐ không thừa cân béo phì tuổi ≥ 35.

II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

  1. Đối tượng nghiên cứu

156 bệnh nhân đái tháo đường tuổi ≥ 35, không thừa cân béo phì (BMI < 23 vào thời điểm đến khám bệnh) tại phòng khám và nhập viện tại khoa nội tiết Bệnh viện Hoàn Mỹ Sài Gòn từ tháng 03/2009 đến 7/ 2010.

  1. Phương pháp nghiên cứu

Đây là phương pháp nghiên cứu mô tả cắt ngang, với cách chọn mẫu là mẫu thuận lợi nên có cở mẫu N = 156 bệnh nhân

2.1. Tiêu chuẩn chọn bệnh

Bệnh nhân đủ các điều kiện sau:

– Đái tháo đường được chẩn đoán theo tiêu chuẩn ADA (2008)

– BMI < 23 (thể trọng không thừa cân, béo phì)

– Tuổi phát hiện bệnh ≥ 35 tuổi

2.2. Tiêu chuẩn loại trừ:

Không đưa vào nghiên cứu những bệnh nhân ĐTĐ có kèm theo:

– Tuổi phát hiện bệnh < 35 tuổi

– BMI ≥ 23

  1. Tiêu chuẩn chẩn đoán ĐTĐ theo ADA năm 2008

  2. Tiêu chẩn đoán LADA [6],[10]

Chẩn đoán LADA khi bệnh nhân có đủ 3 tiêu chuẩn sau:

(1) Khởi phát bệnh ĐTĐ ở tuổi trưởng thành

(2) Có kháng thể kháng GAD dương tính

(3) Không cần dùng insulin ít nhất 6 tháng sau khi được chẩn đoán

Mặc dù ĐTĐ típ LADA có thể khởi phát bệnh ở độ tuổi từ 25 đến 35 nhưng nhiều nghiên cứu cho thấy tần suất LADA xuất hiện nhiều ở độ tuổi trên 35[6],[7],[10].

  1. Định lượng nồng độ kháng thể kháng GAD trong huyết tương

Trong nghiên cứu của chúng tôi sử dụng Phương pháp ELISA (miễn dịch huỳnh quang), với thuốc thử là Isletest-GAD của BIOMERICA  trên máy Evolis của hãng Bio-Rad để phát hiện kháng thể kháng GAD ở bệnh nhân ĐTĐ không thừa cân béo phì.

– Kết quả: Nồng độ kháng thể GAD > 1,05 Unit/ml  là dương tính.

Nồng độ kháng thể GAD <  1 Unit/ml  là âm tính.

Nồng độ kháng thể GAD 1- 1,05 là trung gian, phải định lượng lại kháng thể kháng GAD lại một lần nữa (theo tiêu chuẩn của thuốc thử là Isletest-GAD của BIOMERICA  trên máy Evolis của hãng Bio-Rad)

– Độ nhạy: 85%.

– Độ đặc hiệu: 87%.

  1. Phương pháp thống kê:

Dữ liệu được xử lý bằng chương trình SPSS version 13.0.

Kiểm định sự khác biệt các tỉ lệ bằng phép  kiểm chi bình phương. Sự khác biệt các trị số trung bình bằng T-test. P< 0,05 xem là có ý nghĩa thống

III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Trong 156 bệnh nhân đái tháo đường không thừa cân, béo phì trong mẫu nghiên cứu có 30 trường hợp có kháng thể kháng GAD dương tính.

  1. ĐẶC ĐIỂM CHUNG CỦA MẪU NGHIÊN CỨU

1.1. Đặc điểm về tuổi 

 

Bảng 1: Phân bố bệnh nhân ĐTĐ không thừa cân, béo phì theo tuổi và tuổi phát hiện bệnh

 

Nhóm tuổi Tuổi tại thời điểm nghiên cứu Tuổi phát hiện bệnh
Số bệnh nhân Tỷ lệ(%) Số bệnh nhân Tỷ lệ(%)
35- 44 31 19,9 42 26,9
45- 54 27 17,3 43 27,6
55- 64 40 25,6 36 23,1
65- 74 35 22,4 23 14,7
75- 84 19 12,2 10 6,4
85- 94 4 2,6 2 1,3
Tổng 156 100,0 156 100,0
Tuổi TB 59,29±13,92 54,56±13,00
 lớn nhất 89 89
nhỏ nhất 35 35

 

Tuổi phát hiện bệnh trung bình là 54,56±13,00.

Tuổi nhỏ nhất là 35, lớn nhất là 89 và 77,6% tuổi phát hiện bệnh < 65 tuổi.

1.2. Đặc điểm về thời gian mắc bệnh

 

Bảng 2: Phân bố bệnh nhân ĐTĐ không thừa cân, béo phì theo thời gian mắc bệnh

Biến số Số bệnh nhân Tỷ lệ (%)
TGPHB < 6 tháng 48 30,8
TGPHB ≥ 6 tháng 108 69,2
Tổng 156 100,0
TGPHB trung bình 4, 65± 0,38 năm

 

Nhóm bệnh nhân có thời gian mắc bệnh ≥ 6 tháng chiếm tỷ lệ 69,%

1.3. Đặc điểm về điều trị

Bảng 3: Điều trị tại thời điểm chẩn đoán và hiện tại

Biến số Điều trị tại thời điểm phát hiện bệnh Điều trị hiện nay
Số bn  (%) Số bn  (%)
Không thuốc 44 28,2 51 32,7
Thuốc viên 107 68,6 72 46,2
Insulin 5 3,2 25 16
Thuốc viên + insulin 0 0 8 5,1
Tổng 156 100,0 156 100,0
  1. KHÁNG THỂ KHÁNG GAD

 

  • Nồng độ trung bình của kháng thể kháng GAD

­­

Bảng 3: Nồng độ trung bình của kháng thể kháng GAD

Kháng thể kháng GAD Nồng độ trung bình Nồng độ lớn nhất Nồng độ nhỏ nhất
Mẫu nghiên cứu 0,78 ± 0,66 3,78 0,01
Nhóm kháng thể kháng  GAD dương tính 1,89±0,72 3,78 1,24
Nhóm kháng thể kháng GAD âm tính 0,52±0,23 0,97 0,01
Nhóm LADA 1,72±0,58 3,22 1,24

Nồng độ trung bình kháng thể kháng GAD ở nhóm kháng thể kháng GAD dương tính và nhóm LADA cao gấp 3 lần so với nhóm âm tính, nhưng không có sự khác biệt giữa 2 nhóm LADA và kháng thể kháng GAD dương tính.

  • . Tỷ lệ kháng thể kháng GAD

Bảng 4: Tỷ lệ kháng thể kháng GAD dương tính trong mẫu nghiên cứu

ĐTĐ không thừa cân, béo phì Số bệnh nhân Tỷ lệ(%)
Nhóm kháng thể kháng GAD dương tính 30 19,23
Nhóm kháng thể kháng GAD âm tính 126 80,77
Tổng 156 100,0

Trong 156 bệnh nhân ĐTĐ không thừa cân, béo phì có 30 bệnh nhân có kháng thể kháng GAD dương tính chiếm tỷ lệ 19, 23%.

Bảng 5: Tỷ lệ kháng thể kháng GAD dương tính ở nhóm bệnh nhân ĐTĐ không thừa cân, béo phì mới phát hiện

ĐTĐ không thừa cân, béo phì mới phát hiện Số bệnh nhân Tỉ lệ (%)
Nhóm kháng thể kháng GAD dương tính 3 8,3
Nhóm kháng thể kháng GAD âm tính 33 91,7
Tổng 36 100,0

Tỉ lệ kháng thể kháng GAD dương tính ở bệnh nhân ĐTĐ không thừa cân, béo phì mới phát hiện là 8,3%.

  1. ĐTĐ TÍP LADA

Bảng 6: Tỷ lệ ĐTĐ típ LADA trong mẫu nghiên cứu

Biến số Số bệnh nhân Tỷ lệ(%)
LADA 22 14,10
Nhóm kháng thể kháng GAD dương tính 30 19,23
Cở mẫu 156  

Trong mẫu nghiên cứu ĐTĐ không thừa cân béo phì ≥ 35 tuổi có 30 trường hợp kháng thể kháng GAD dương tính chiếm tỉ lệ 19, 23%.

Trong 30 trường hợp kháng thể kháng GAD dương tính chỉ có 22 trường hợp thỏa tiêu chuẩn đoán LADA chiếm tỉ lệ 73, 33% trong nhóm kháng thể kháng GAD dương tính và 14,10% trong mẫu ĐTĐ không thừa cân, béo phì. Còn 8 trường hợp có kháng thể kháng GAD dương tính nhưng có 5 trường hợp thời gian mắc bệnh dưới 6 tháng cần theo dõi thêm và 3 trường hợp không có điều trị thuốc nên chúng tôi không đưa vào chẩn đoán LADA.

 

Bảng 7: Phân bố LADA theo giới tính

Giới tính LADA ĐTĐ không thừa cân, béo phì
Số bệnh nhân Tỉ lệ (%) Số bệnh nhân Tỉ lệ (%)
Nữ 18 81,8 72 53,7
Nam 4 18,2 62 46,3
Tổng 22 100,0 134 100,0

 

Bảng 8: Phân bố ĐTĐ típ LADA theo nhóm tuổi và tuổi phát hiện bệnh

Nhóm tuổi Tuổi tại thời điểm nghiên cứu Tuổi phát hiện bệnh
Số bn Tỉ lệ (%) Số bn Tỉ lệ (%)
35- 44 1 4,5 1 4,5
45- 54 0 0 11 50,0
55- 64 12 54,5 8 36,4
65- 74 7 31,8 2 9,1
75- 84 1 4,5 0 0
85- 94 1 4,5 0 0
Tổng 22 100,0 22 100,0
Tuổi TB 64,73 ± 8,8 54,36 ± 6,46
lớn nhất 85 65
 nhỏ nhất 42 38

 

BÀN LUẬN

Bệnh nhân đái tháo đường ở Châu Á không giống như ở phương tây tỉ lệ người gầy mắc bệnh cao hơn. Nhiều trường hợp đái tháo đường típ 2 sau thời gian đáp ứng thuốc viên trở nên phụ thuộc insulin. Ở Việt Nam trong thực hành rất thường gặp đái tháo đường ở người gầy và đái tháo đường típ 2 trở nên phụ thuộc insuline sau một thời gian đáp ứng thuốc viên. Các nghiên cứu ở phương tây cho thấy tỉ lệ LADA chiếm khoảng 10% trong số bệnh nhân được chẩn đoán “đái tháo đường típ 2” [3] [5][14]. Ở Châu Á,  nghiên cứu ở Trung Quốc và Hàn Quốc cho thấy tỉ lệ LADA trong dân số đái tháo đường được chẩn đoán là “típ 2” thấp hơn so với các nghiên cứu ở phương tây. Lee SH nghiên cứu trên 1370  bệnh nhân đái tháo đường được chẩn đoán là típ 2 người Hàn Quốc nhận thấy tỉ lệ LADA là 5.1% [9]. Tại Trung Quốc Zhou J nghiên cứu trên 1711 bệnh nhân được chẩn đoán là đái tháo đường típ 2 và tỉ lệ LADA là 6.7% [15]. Trong cả hai nghiên cứu các tác giả sử dụng kháng thể kháng GAD và kháng thể kháng IA2 để phát hiện đái tháo đường típ LADA (dương tính với 1 hoặc 2 kháng thể ). K. Hamaguchi  và cộng sự nghiên cứu trên 835 bệnh nhân đái tháo đường được chẩn đoán là típ 2 người Nhật tỉ lệ LADA là 6.6% [8]. Trong nghiên cứu có mẫu lớn là nghiên cứu Ehime (mẫu 4980 trường hợp người nhật, chỉ khảo sát kháng thể kháng  GAD ) tỉ lệ LADA là 3.8%[11]. Trong nghiên cứu của chúng tôi tỉ lệ LADA là 14, 10%, cao hơn các nghiên cứu nói trên ở Châu Á có thể do chúng tôi chọn nhóm bệnh nhân không thừa cân béo phì.

 Davies H nghiên cứu ở Anh tỉ lệ LADA trong số bệnh nhân đái tháo đường được chẩn đoán là típ 2 là 4% [4]. Calsolari MR nghiên cứu trên 256 bệnh nhân đái tháo đường típ 2 ở Brasil tỉ lệ LADA là 10,2% [2]. Tica V nghiên cứu 33 người Châu Á  mắc đái tháo đường được chẩn đoán là típ 2 sống ở Birmingham tỉ lệ LADA là 27% [13]. L. Chaillous và cộng sự nghiên cứu trên 639 bệnh nhân đái tháo đường típ 2 khảo sát cả 02 kháng thể anti GAD và ICA thì tỉ lệ LADA là 10%[3]. Trong nghiên cứu với mẫu lớn 4545 trường hợp đái tháo đường típ 2 thực hiện ở Châu Âu là UKPDS 70 thì tỉ lệ LADA là 11.6% [5]. Nhìn chung các nghiên cứu ở phương tây cho thấy tỉ lệ LADA trong dân số đái tháo đường típ 2 cao hơn ở người châu Á. Tỉ lệ LADA thay đổi trong các nghiên cứu do chủng tộc khác nhau trong dân số nghiên cứu, do tiêu chuẩn chẩn đoán LADA khác nhau, xét nghiệm khác nhau, thiết kế nghiên cứu khác nhau….Các nghiên cứu có mẫu nhỏ, dựa trên dân số bệnh nhân ở bệnh viện, nghiên cứu theo chiều dọc, khảo sát nhiều kháng thể thường cho tỉ lệ LADA cao hơn [5] [13].

Trong nghiên cứu của chúng tôi chỉ khảo sát một kháng thể nên cũng có thể các trường hợp không dương tính với kháng thể kháng  GAD nhưng dương dương tính với kháng thể khác bị bỏ sót. Tỉ lệ LADA trong nghiên cứu của chúng tôi có thể sẽ cao hơn nếu làm thêm kháng thể kháng IA2, kháng thể kháng ICA. Trong nghiên cứu của L. Chaillous và cộng sự nếu chỉ xét kháng thể kháng GAD thì tỉ lệ LADA là 6.7%. Nếu xét kháng thể kháng GAD hoặc ICA dương thì tỉ lệ LADA 10% [3]. Trong nghiên cứu UKPDS 70 xét trên một trong 03 kháng thể kháng GAD, kháng thể kháng IA2, kháng thể kháng ICA dương tính thì tỉ lệ LADA là 11.6%. nếu chỉ xét kháng thể kháng GAD thì tỉ lệ LADA là 8,2% [5].

Khoảng 10- 15% bệnh nhân tuổi trưởng thành bị ĐTĐ típ LADA, tỉ lệ này có thể đến 50% trong nhóm “ ĐTĐ típ 2” không béo
phì [16].

Do nghiên cứu của chúng tôi cắt ngang nên 5 trường hợp có kháng thể kháng GAD dương với đái tháo đường được phát hiện lần đầu khi bệnh nhân đi khám và 3 trường hợp chưa điều tri thuốc nên không thể xác định thời gian đáp ứng thuốc viên, chúng tôi phải xếp vào nhóm không phải LADA. Tuy nhiên nhiều tác giả cho là chỉ cần kháng thể anti- GAD dương tính ở bệnh nhân đái tháo đường khởi phát ở tuổi trưởng thành là được xem là LADA mà không xem xét đến tiêu chuẩn đáp ứng điều trị thuốc viên ít nhất 06 tháng.

Trong nghiên cứu của chúng tôi tuổi phát hiện bệnh ĐTĐ trong típ LADA nhiều nhất là từ tuổi 45- 54, tuổi trung bình 54,36 ± 6,46 năm cao hơn so với nghiên cứu của  Tan HH trên 13 trường hợp LADA ở Singapore [12] là 39 ± 14 năm, chủ yếu là tuổi 40.

Trong nghiên cứu của chúng tôi, nữ trong ĐTĐ típ LADA chiếm tỉ lệ cao hơn nam là 81,8% và 18,2% tương tự với nghiên cứu của Tan HH nữ cũng chiếm ưu thế[12]. Tuy nhiên trong nhiều nghiên cứu tỉ lệ nam nữ ngang nhau [5] [3][11].

KẾT LUẬN

Tỉ lệ LADA trong số bệnh nhân đái tháo đường không thừa cân và béo phì ≥ 35 tuổi là 14,10%. Tuổi khởi phát bệnh ĐTĐ trong típ LADA nhiều nhất là từ tuổi 45- 54, tuổi trung bình 54,36 ± 6,46 năm .ĐTĐ típ LADA nữ chiếm tỉ lệ cao hơn nam là 81,8% và 18,2%.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Nguyễn Thị Nhạn (2006), “Đái tháo đường ở người già”, Kỷ yếu toàn văn các đề tài nghiên cứu khoa học, Hội nghị nội tiết đái tháo đường miền trung lần thứ V-2006
  2. Calsolari MR, Rosário PW, Reis JS, Silva SC, Purisch S. Latent autoimmune diabetes of adult or slim type 2 diabetes mellitus?. Arq Bras Endocrinol Metabol. 2008 Mar;52(2) pp:315-21.
  3. Chaillous L, Bouhanick B, Kerlan V, Mathieu E, Lecomte P, Ducluzeau PH, Delamaire M, Sonnet E, Maugendre D, Maréchaud R, Rohmer V, Saï P, Charbonnel B. Clinical and metabolic characteristics of patients with latent autoimmune diabetes in adults (LADA): absence of rapid beta-cell loss in patients with tight metabolic control. Diabetes Metab. 2010 Feb;36(1) pp:64-70. Epub 2010 Jan 8
  4. Davies H, Brophy S, Fielding A, Bingley P, Chandler M el al. Latent autoimmune diabetes in adults (LADA) in South Wales: incidence and characterization. Diabet Med. 2008 Nov;25(11) pp:1354-7
  5. Davis TM, Wright AD, Mehta ZM, Cull CA, Stratton IM, Bottazzo GF, Bosi E, Mackay IR, Holman RR. Islet autoantibodies in clinically diagnosed type 2 diabetes: prevalence and relationship with metabolic control (UKPDS 70). Diabetologia. 2005 Apr;48(4) pp:695-702. Epub 2005 Feb 24
  6. Fourlanos S, Dotta F, Greenbaum CJ, Palmer JP, Rolandsson O, Colman PG, Harrison LC (2005), “Latent Autoimmune Diabetes in Adults (LADA) should be less latent”, Diabetologia, 48 pp: 2206–12.
  7. Groop L, Tuomi T, Rowley M, Zimmet P, Mackay IR. (2006) Latent autoimmune diabetes in adults (LADA)—more than a name Diabetologia (2006) 49 pp:1996–8
  8. Hamaguchi K, Kimura A, Kusuda Y, Yamashita T, Yasunami M, Takahasi M, Abe N, Yoshimatsu H. Clinical and genetic characteristics of GAD-antibody positive patients initially diagnosed as having type 2 diabetes. Diabetes Res Clin Pract. 2004 Nov;66(2) pp:163-71.
  9. Lee SH, Kwon HS, Yoo SJ, Ahn YB, Yoon KH, Cha BY, Lee KW, Son HY. Identifying latent autoimmune diabetes in adults in Korea: the role of C-peptide and metabolic syndrome. Diabetes Res Clin Pract. 2009 Feb;83(2) pp:e62-5.
  10. Rosário PW, Reis JS, Fagundes TA, Calsolari MR, Amim R, Silva SC, Purisch S (2007), “Latent autoimmune diabetes in adults (LADA): usefulness of anti-GAD antibody titers and benefit of early insulinization”, Arq Bras Endocrinol Metabol, 51(1) pp:8-10
  11. Takeda H, Kawasaki E, Shimizu I, Konoue E, Fujiyama M, el al, Ehime Study. Clinical, autoimmune, and genetic characteristics of adult-onset diabetic patients with GAD autoantibodies in Japan (Ehime Study). Diabetes Care. 2002 Jun;25(6) pp:995-1001.
  12. Tan H H, Lim S C. Latent Autoimmune Diabetes in Adults (LADA): A Case Series. Singapore Med J 2001 Vol 42(11) pp: 513-6.
  13. Tica V, Hanif MW, Andersson A, Valsamakis G, Barnett AH, Kumar S, Sanjeevi CB. Frequency of latent autoimmune diabetes in adults in Asian patients diagnosed as type 2 diabetes in Birmingham, United Kingdom. Ann N Y Acad Sci. 2003 Nov;1005 pp:356-8.
  14. Turner R, Stratton I, Horton V, Manley S, Zimmet P, Mackay IR, Shattock M, Bottazzo GF, Holman R. UKPDS 25 (1997), “Autoantibodies to islet-cell cytoplasm and glutamic acid decarboxylase for prediction of insulin requirement in type 2 diabetes. UK Prospective Diabetes Study Group”, Lancet, 350(9087) pp:1288-93
  15. Zhou J, Ma XJ, Bao YQ, Pan XP, Lu W el al, Study on prevalence of latent autoimmune diabetes in adults and its relationship with metabolic syndrome. Zhonghua Yi Xue Za Zhi. 2009 May 12;89(18) pp:1250-4.

Không reup bài viết khi chưa được cho phép!

About dacdien

Check Also

Tình trạng suy dinh dưỡng cà một số yếu tố liên quan của người bệnh điều trị tại khoa Hồi sức tích cực – Chống độc bệnh viện Đa khoa tỉnh Tiền Giang năm 2022

TÌNH TRẠNG SUY DINH DƯỠNG VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN CỦA NGƯỜI BỆNH …