NGHIÊN CỨU GIÁ TRỊ CỦA CHỈ SỐ VÒNG BỤNG – CHIỀU CAO
TRONG BỆNH MẠCH VÀNH
TS.Quách Hữu Trung
Bệnh Viện Y Học Cổ Truyền Bộ Công An.,Hà Nội
Summary:
Research the value of the waist to heicht ratio in coronary diseases
Backgrounds: anthropometric indicators such as Waist to Hip Ratio – WHR, Waist to Height Ratio – WHtR, Waist Circumference – WC, Body Mass Index – BMI, Waist to Thigh Ratio – WTR, Mid Upper Arm Circumference – MUAC, Upper Thigh Circumference – UTC) … has proven to have predictive value related to the cardiometabolic risk. WHtR have become very common to note that 0.5 threshold. The meta-analysis showed that compared with BMI, the predictive value of WC for severe cardiovascular events improved 3% (p <0.05), WHtR improved 4-5% (p <0.001). The most important that WHtR is better than WC (p <0.005) on hypertension, diabetes, cardiovascular disease and other cardiovascular events in both sexes.Objectives: assessment WHtR in patients with coronary artery disease and learn the value of WHtR compared with traditional anthropometric indicators BMI, WC, WHR in predicting the cardiovascular risk. Subjects and Methods:study on 160 patients with coronary artery stenosis caused by atherosclerotic confirmed by percutaneous coronary intervention – PCI (129 male, 31 female), average age 61.7 ± 8.6, treated at 19-8 Hospital.WHtR indicators, BMI, WC, WHR were compared in relation to the cardiovascular risks and complications: Cholesterol (CHO), LDL-Cholesterol, triglycerides (TRI), glucose (GLU), the duration of coronary artery disease, aspirin resistance (AR). Data processed by SPSS 18.0. Results:WC increases related to TRI, LDL-C, the duration of coronary artery disease and aspirin resistance (p <0.05). Increased BMI is related to GLU and aspirin resistance (p <0.05). Increased WHR relevant to CHO, TRI, and aspirin resistance (p <0.05). Increased WHtR increase related CHO, TRI, LDL-C, the duration of coronary artery disease and aspirin resistance (p <0.05). Surveying the ROC curve (Receiver Operating Characteristic) to compare the value of the method showed that WHtR was the most valuable to forecast the hypercholesterolemia, hypertriglyceridemia, increased LDL-C and aspirin resistance (AUC = 64.7%, 66.3%, 64.2% and 82% respectively, p <0.05), followed by WC to forecast hypertriglyceridemia, increased LDL-C and aspirin resistance (AUC = 62.7%, 57.1% and 81.3%, p <0.05), WHR to forecast hypercholesterolemia and aspirin resistance (AUC = 63.3% and 76.7%, p <0,05) and BMI to forecast hypertriglyceridemia (AUC = 65.7%, p <0.05).Conclusion:WHtR most valuable in predicting the cardiovascular risks and complications in patients with coronary artery disease when compared to traditional indicators, followed by WC, WHR, BMI.
Keywords:Body Mass Index, Waist to Height Ratio, Waist Circumference, Waist to Hip Ratio, coronary artery disease, aspirin resistance.
Chịu trách nhiệm chính: Quách Hữu Trung
Ngày nhận bài: 15.11.2016
Ngày phản biện khoa học: 28.11.2016
Ngày duyệt bài: 1.12.2016
I. Đặt vấn đề:
Ashwell năm 2011 phân tích tổng hợp các nghiên cứu bao gồm hơn 300.000 cá nhân ở các quần thể khác nhau trên thế giới để tìm hiểu chỉ số nhân trắc nào có giá trị cho mục đích sàng lọc các nguy cơ hoặc biến cố tim mạch chuyển hóa. Kết quả khi so sánh với BMI và WC cho thấy WHtR là một yếu tố dự báo tốt hơn cho bệnh đái tháo đường, rối loạn mỡ máu, tăng huyết áp, nguy cơ bệnh tim mạch ở cả hai giới trong các quần thể khác nhau và các nhóm dân tộc thiểu số. Hơn nữa, WHtR có khả năng phân biệt tốt hơn so với WC. Có sáu lý do tại sao WHtR là một chỉ số được phát triển ứng dụng nhanh:
Thứ nhất, WHtR nhạy hơn BMI như một cảnh báo sớm về nguy cơ sức khỏe. Nó liên quan đáng kể với tất cả các yếu tố nguy cơ của béo phì, hội chứng chuyển hóa và có thể dự đoán tỷ lệ mắc bệnh, tỷ lệ tử vong trong các nghiên cứu theo dõi dọc. Hơn nữa, việc sử dụng WHtR có thể xác định những người trong phạm vi BMI vừa phải có nguy cơ chuyển hóa cao hơn, gần như chắc chắn vì WHtR liên quan chặt chẽ hơn với béo phì trung tâm. WHtR có thể nhạy cảm hơn so chu vi vòng bụng trong các quần thể khác nhau vì nó đã bao gồm việc điều chỉnh các loại thể hình khác nhau và không có tương quan giữa chiều cao với yếu tố nguy cơ chuyển hóa.
Thứ hai, giá trị ranh giới WHtR có thể được chuyển đổi thành một biểu đồ thân thiện. Một nguyên mẫu của một biểu đồ với chu vi vòng bụng trên trục X và chiều cao trên trục Y, bao gồm giá trị ranh giới đề xuất (WHtR=0.5) giữa ‘OK’ và ‘Hãy chú ý’ với một giá trị ranh giới thứ hai (WHtR=0.6) giữa ‘Hãy chú ý’ và ‘Hãy hành động’ đã được đưa ra từ giữa những năm 1990.
Các đề xuất giá trị ranh giới của WHtR (The Ashwell Shape Chart)
Thứ ba, WHtR có thể cho phép các giá trị ranh giới tương tự cho trẻ em và người lớn. Hiện nay, bằng chứng cho thấy WHtR có thể được sử dụng để dự đoán nguy cơ ở trẻ em vì chiều cao và chu vi vòng eo của trẻ em tăng liên tục theo tuổi, giá trị ranh giới 0.5 có thể được sử dụng trên tất cả các nhóm tuổi.
Thứ tư, WHtR rẻ hơn và dễ dàng hơn để đo lường và tính toán so với BMI. Đo lường của nó chỉ đơn giản đòi hỏi kiến thức về chiều cao (tự đánh giá là ổn định hơn và đáng tin cậy so với trọng lượng khi không có thiết bị đo tiêu chuẩn) và số đo vòng bụng chỉ cần thước đo mà không cần đến cân để đo trọng lượng.
Thứ năm, WHtR cho phép các giá trị giới hạn tương tự cho nam giới và nữ giới. Bình thường, nam giới cao hơn so với phụ nữ và có vòng bụng lớn hơn. Điều này có nghĩa rằng trung bình giá trị WHtR trên người trưởng thành cả hai giới đều phản ánh trung thực nguy cơ với ngưỡng 0,5.
Thứ sáu, WHtR cho phép các giá trị ranh giới tương tự cho các nhóm dân tộc khác nhau. Mặc dù đề xuất của WHO 2000 rằng chu vi vòng bụng có giá trị để dự đoán nguy cơ trong các quần thể về màu da khá đồng nhất, nơi ảnh hưởng của chiều cao là ít quan trọng. Có sự biến đổi toàn cầu lớn về chiều cao trung bình của cả hai giới, dân cư châu Á có xu hướng thấp hơn so với các quần thể màu da khác. Hơn nữa, những nguy cơ sức khỏe cho người châu Á bắt đầu tăng đối với lượng nhỏ hơn của chất béo trung tâm và vòng bụng so với các dân tộc da trắng (WHO 2000; 2004). WHtR có tác dụng chống lại những sự khác biệt này và giá trị tương tự thích hợp ở cả hai nhóm dân tộc. Việc sử dụng WHtR đã được đề xuất cùng một lúc bởi nhóm nghiên cứu các nước châu Á và Anh với ranh giới 0.5 để chỉ ra nguy cơ sức khỏe bắt đầu tăng. Nghiên cứu ngưỡng tối ưu cho WHtR trong các quần thể khác đã chỉ ra rằng 0.5 là giá trị đơn giản nhất cho cả hai giới. Thông điệp của y tế cộng đồng không thể đơn giản hơn là ‘’Hãy giữ vòng bụng của bạn nhỏ hơn một nửa chiều cao’’.
Kháng aspirin “Aspirin Resistance – AR” trong lâm sàng được định nghĩa khi aspirin không có khả năng ngăn ngừa biến cố gây tắc mạch do huyết khối trên những bệnh nhân vữa xơ động mạch đang được điều trị với aspirin. Phân tích tổng hợp năm 2008 của Krasopoulos trên 20 nghiên cứu với 2930 bệnh nhân cho thấy tỷ lệ kháng aspirin tổng hợp là 28%. Kháng aspirin có liên quan với biến cố tim mạch (OR = 3,85; 95%CI = 3,08 – 4,80), với tỷ lệ tử vong (OR = 5,99; 95%CI = 2,28 – 15,72), với hội chứng mạch vành cấp (OR = 4,06; 95%CI = 2,96 – 5,56). Kháng aspirin không bị ảnh hưởng khi dùng phối hợp với các thuốc chống ngưng tập tiểu cầu khác. Khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nhóm kháng aspirin và nhóm không kháng aspirin trên các yếu tố: nam giới (7/20 nghiên cứu, p =0,001), giảm chức năng thận (2/20 nghiên cứu, p =0,03).
‘’Nghiên cứu giá trị của chỉ số vòng bụng-chiều cao trong bệnh mạch vành’’ nhằm 2 mục tiêu:
- Khảo sát giá trị của WHtR trên bệnh nhân bệnh mạch vành.
- Tìm hiểu giá trị của WHtR so với BMI, WC, WHR qua mối liên quan với các yếu tố nguy cơ và biến cố tim mạch.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Đối tượng nghiên cứu: nghiên cứu trên 160 bệnh nhân hẹp động mạch vành do vữa xơ khẳng định qua chụp động mạch vành PCI (129 nam, 31 nữ), tuổi trung bình 61,7 ± 8,6, điều trị tại Bệnh viện 19-8.
Sử dụng tiêu chuẩn đánh giá kháng aspirin bằng phương pháp quang học của Gum và cộng sự đề nghị bao gồm: kháng aspirin hoàn toàn khi có đủ hai tiêu chuẩn 0,5 mg/ml Acid Arachidonic (AA) gây ngưng tập tiểu cầu ≥20% và 10 µM/l ADP (Adenosin DiPhosphat) gây ngưng tập tiểu cầu ≥70%, kháng aspirin không hoàn toàn khi có một trong hai tiêu chuẩn nêu trên.
- Phương pháp nghiên cứu: mô tả cắt ngang.
Các chỉ số WHtR, BMI, WC, WHR được so sánh bằng diện tích dưới đường cong Receiver Operating Characteristic – ROC (Area Under the ROC Curve) trong mối liên quan với các thông số đánh giá nguy cơ và biến chứng tim mạch: cholesterol máu, LDL-C máu, triglycerid máu, glucose máu, thời gian mắc bệnh động mạch vành, tình trạng kháng aspirin.
- Xử lý số liệu: trên phần mềm SPSS 18.0
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU:
Bảng 3.1: Đặc điểm chung đối tượng nghiên cứu
Tuổi trung bình 61,7 ± 8,6 và nam giới chiếm 80,6%, nữ giới chiếm 19,4%.
Bảng 3.2: Đặc điểm các yếu tố nguy cơ
Thời gian mắc bệnh mạch vành 2,43 ± 2,78 năm, có 26,2% kháng aspirin.
Bảng 3.3: Liên quan tăng vòng bụng (WC) với các yếu tố nguy cơ
Khác biệt có ý nghĩa khi có tăng WC với AR, TRI, LDL, thời gian bệnh.
Bảng 3.4: Liên quan tăng BMI với với các yếu tố nguy cơ
Khác biệt có ý nghĩa khi có tăng BMI với AR, GLU.
Bảng 3.5: Liên quan độ cứng động mạch với tăng WHtR
Khác biệt có ý nghĩa khi có tăng WHtRvới AR, CHO, TRI, LDL, thời gian bệnh.
Bảng 3.6: Liên quan độ cứng động mạch với tăng WHR
Khác biệt có ý nghĩa khi có tăng WHR với AR, CHO, TRI.
Bảng 3.7: Khảo sát đường cong ROC với tăng Cholesterol máu
Giá trị liên quan đến tăng Cholesterol máu giảm theo thứ tự WHtR, WHR.
Bảng 3.8: Khảo sát đường cong ROC với tăng Triglycerid máu
Giá trị liên quan tăng Triglycerid máu giảm theo thứ tự WHtR, BMI, WC.
Bảng 3.9: Khảo sát đường cong ROC với tăng LDL-C máu
Giá trị liên quan đến tăng LDL-C máu giảm dần theo thứ tự WHtR, WC.
Bảng 3.10: Khảo sát đường cong ROC với kháng aspirin
Giá trị liên quan đến kháng aspiringiảm dần theo thứ tự WHtR, WC, WHR, BMI.
IV. Bàn luận:
Nguyễn Thị Thu Hậu và cộng sự năm 2010 nghiên cứu trên 204 trẻ, 102 béo phì và 102 không béo phì, được chia thành 6 nhóm theo tuổi và giới, mỗi nhóm 17 trẻ (<6 tuổi, 6 – <10 tuổi, ≥ 10 tuổi, nam/ nữ). Kết quả thấy WHtR ít phụ thuộc vào tuổi và giới hơn so với BMI. Chỉ số WHtR có khác biệt ở những bệnh nhân béo phì và không béo phì ở trẻ nam mọi tuổi, nữ <6 tuổi, nữ 6 – <10 tuổi. Riêng nhóm nữ ≥10 tuổi thì không có sự khác biệt. Diện tích dưới đường cong ROC đều ở khoảng 0,96 – 0,98, có khả năng phân cách rất tốt giữa béo phì và không béo phì. Ngưỡng chẩn đoán cho nam là 0.501 và nữ là 0.489, nữ dưới 10 tuổi là 0.502, với độ nhạy >96 – 100% và độ đặc hiệu khoảng 80%. Kết luận rằng có thể xem xét việc sử dụng tỉ lệ vòng bụng trên chiều cao để xác định tình trạng béo phì ở trẻ em nam các lứa tuổi và nữ dưới 10 tuổi. Chỉ số này ít phụ thuộc vào tuổi và giới hơn là BMI nhưng chính xác, đơn giản, dễ sử dụng.
Quách Hữu Trung và Lý Tuấn Khải năm 2014 nghiên cứu tiến hành trên 109 bệnh nhân đái đường týp 2 (70 nam, 39 nữ ) từ 45 đến 89 tuổi thấy tỷ lệ kháng aspirin là 37,6% kháng aspirin hoàn toàn và 33% kháng aspirin không hoàn toàn. Kháng aspirin có tương quan với tăng BMI [OR =3,97 (1,66-9,49)], với tăng số đo vòng bụng [OR =3,09 (1,29-7,41)], với tăng chỉ số vòng bụng trên vòng mông WHR [OR =4,07 (1,68-9,84)]. Bệnh nhân kháng aspirin có nồng độ Cholesterol máu tăng có ý nghĩa so với bệnh nhân không kháng aspirin (5,00 ± 0,96 mmol/l so với 4,41 ± 0,94mmol/l, p <0,001). Bệnh nhân kháng aspirin có thời gian dùng aspirin dài hơn có ý nghĩa so với bệnh nhân không kháng aspirin (6,56 ± 0,85 tháng so với 1,34 ± 1,03 tháng, p <0,001). Ngưng tập tiểu cầu với ADP có tương quan thuận với vòng bụng (r=0,263, p<0,01), với nồng độ hemoglobin máu (r=0,205, p<0,05), với WHR (r=0,242, p<0,05), với thời gian sử dụng aspirin (r=0,290, p<0,01). Ngưng tập tiểu cầu với AA tương quan thuận với vòng bụng (r=0,426, p<0,01), với WHR (r=0,247, p<0,01), với thời gian dùng aspirin (r=0,539, p<0,01).
Quách Hữu Trung và cộng sự năm 2015 nghiên cứu tiến hành trên 425 bệnh nhân có nguy cơ tim mạch cao (301 nam và 124 nữ), tuổi trung bình là 66,96 ± 11,76, đang dùng liều aspirin 100mg/ngày kéo dài cho thấy tỷ lệ kháng aspirin là là 69,6% (38,6% kháng aspirin hoàn toàn và 31,0% kháng aspirin không hoàn toàn) đánh giá bằng xét nghiệm quang học ngưng tập tiểu cầu với chất kích tập ADP và AA. Khác biệt có ý nghĩa thống kê vói p <0,05 giữa nhóm kháng aspirin và nhóm nhạy aspirin ở các thông số: tuổi, BMI, WHR, nồng độ hemoglobin. Kháng aspirin hoàn toàn cao hơn ở nam giới, kháng aspirin không hoàn toàn cao hơn ở nữ giới. Yếu tố dự báo kháng aspirin là BMI ≥23, tăng lên khi kết hợp với đái tháo đường.
Zhou năm 2008 điều tra trên 13558 nam giới và 15521 nữ giới người Trung Quốc cho thấy tất cả các chỉ số nhân trắc học cho bệnh béo phì có tương quan tích cực với huyết áp và sự hiện diện của tăng huyết áp. Sau khi điều chỉnh tuổi và các yếu tố khác, WHtR ở nam giới và chỉ số BMI ở phụ nữ đã có mối liên quan lớn hơn với tăng huyết áp so với các chỉ số đánh giá béo phì khác không phân biệt các phương pháp thống kê được sử dụng. BMI có sự tương quan mạnh với áp lực máu liên tục ở cả hai giới. Có tồn tại một sự khác biệt lớn giữa nam giới và phụ nữ chưa bao giờ được tiết lộ bởi các nghiên cứu trước đó, liên quan đến các vấn đề trong đó các thông số của béo phì là chỉ số tốt nhất cho bệnh tăng huyết áp. Đó là béo phì nội tạng có xu hướng là quan trọng hơn ở nam giới và có liên quan đến tăng huyết áp, trong khi ở phụ nữ các chỉ số tổng thể đánh giá béo phì là tốt hơn cho bệnh tăng huyết áp.
Patrícia Chagasnăm 2011 tìm hiểu mối liên hệ giữa các thông số nhân trắc học và gánh nặng xơ vữa động mạch. 337 bệnh nhân (213 nam giới – 63,2%), tuổi trung bình 60,1 ± 10 năm đã chụp động mạch vành được đưa vào nghiên cứu. Thông số nhân trắc bao gồm: vòng bụng (WC), vòng cổ (Neck Circumference – NC), BMI, WHR, WHtR. Gánh nặng xơ vữa động mạch ở mạch vành được đo lường thông qua điểm Friesinger (Friesinger Score – FS). xơ vữa động mạch quan trọng được xem xét khi FS ≥ 5. Kết quả chỉ WHR cho thấy một mối tương quan tuyến tính có ý nghĩa với gánh nặng xơ vữa động mạch vành được đo bằng FS (r = 0,159 và p = 0,003). Khi phân chia theo giới tính, thấy một mối tương quan đáng kể giữa WHR với FS ở nữ giới (r = 0,198 và p = 0,028).
Mooney năm 2012 khảo sát trên 12294 người với kết quả BMI là yếu tố dự báo mạnh nhất của tăng huyết áp, phân tích đường cong ROC đã điều chỉnh cho toàn bộ nhóm và phân tầng theo chủng tộc và giới tính, sử dụng các điểm cắt lâm sàng cho những nguy cơ chuyển hóa cho thấy WC và WHtR dự đoán glucose máu lúc đói tốt hơn so với chỉ số BMI và tất cả các biện pháp này đều tốt với dự đoán mức độ cholesterol máu.
Quan năm 2013 nghiên cứu sàng lọc đái tháo đường bằng các chỉ số nhân trắc trên 8121 bệnh nhân thấy đối tượng mắc bệnh béo phì có nguy cơ cao của bệnh đái tháo đường do bác sĩ chẩn đoán (OR = 2,50, 95% CI = 1,83-3,43), bệnh đái tháo đường được chẩn đoán mới (OR = 4,23, 95% CI = 2,91-6,15) và tiền đái tháo đường (OR = 1,75, 95% CI = 1,31-2,34) so với những người có chỉ số khối cơ thể bình thường (BMI). Có một xu hướng đáng kể nguy cơ gia tăng của tất cả các tình trạng bệnh đái tháo đường với tăng chu vi vòng bụng (WC). Tỷ lệ vòng bụng trên chiều cao (WHtR) cũng cho thấy sự liên kết quan trọng nhất so với các chỉ số nhân trắc khác với bệnh đái tháo đường được chẩn đoán mới và đái tháo đường do bác sĩ chẩn đoán. WHtR là một chỉ số hiệu quả hơn so với chỉ số BMI và WC trong sàng lọc bệnh đái tháo đường ở cộng đồng người Hoa.
Dong năm 2015 nghiên cứu trên 13275 người Trung Quốc (7595 nam, 5680 nữ) với kết quả WC, WHtR, WHR và BMI đều tương quan có ý nghĩa (p <0,001) với tất cả các yếu tố của hội chứng chuyển hóa không phân biệt giới tính. Diện tích dưới đường cong (AUC) của WHtR là lớn hơn so với WC, BMI hoặc WHR trong dự đoán tăng huyết áp, rối loạn lipid máu, tăng đường huyết và tăng acid uric máu đáng kể. Kết luận cho thấy WHtR là dự báo tốt nhất của các loại rối loạn chuyển hóa khác nhau. Giá trị chẩn đoán theo thứ tự giảm dần là WHtR > WHR > WC > BMI. Nên sử dụng WHtR trong đánh giá bệnh nhân béo phì vì nó có giá trị tốt hơn trong khảo sát các nguy cơ của các loại bệnh chuyển hóa.
V. KẾT LUẬN
Tăng WHtR có liên quan đến CHO, TRI, LDL-C, thời gian mắc bệnh mạch vành và kháng aspirin (p <0,05). Tăng WC có liên quan đến TRI, LDL-C, thời gian mắc bệnh mạch vành và kháng aspirin (p <0,05). Tăng BMI có liên quan đến GLU và kháng aspirin (p <0,05). Tăng WHR có liên quan đến CHO, TRI, và kháng aspirin (p <0,05).
Khảo sát đường cong ROC (Receiver Operating Characteristic) để so sánh giá trị của các phương pháp cho thấy: WHtR có giá trị nhất để dự báo các chỉ số tăng Cholesterol máu, tăng Triglycerid máu, tăng LDL-C máu và Kháng aspirin (AUC = 64,7%, 66,3%, 64,2% và 82% tương ứng với p <0,05), tiếp theo là WC với dự báo tăng Triglycerid máu, tăng LDL-C máu và Kháng aspirin (AUC = 62,7%, 57,1% và 81,3% với p <0,05), WHR với dự báo tăng Cholesterol máu và Kháng aspirin (AUC = 63,3% và 76,7% với p <0,05) và BMI với tăng Triglycerid máu (AUC = 65,7% với p <0,05).
WHtR có giá trị nhất trong dự đoán các yếu tố đánh giá nguy cơ và biến chứng tim mạch trên bệnh nhân bệnh mạch vành khi so sánh với các chỉ số truyền thống, tiếp theo là WC, WHR, BMI.
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: các chỉ số nhân trắc như tỷ lệ vòng bụng trên vòng mông (Waist to Hip Ratio – WHR), tỷ lệ vòng bụng trên chiều cao (Waist to Height Ratio – WHtR), chu vi vòng bụng (Waist Circumference – WC), chỉ số khối cơ thể (Body Mass Index – BMI), tỷ lệ vòng bụng trên vòng đùi (Waist-to-Thigh Ratio – WTR), chu vi phía trên cánh tay (Mid-Upper Arm Circumference – MUAC), chu vi phía trên đùi (Upper Thigh Circumference – UTC)… đã được chứng minh có giá trị dự báo liên quan đến nguy cơ tim mạch chuyển hóa (Cardiometabolic Risk). Chỉ số WHtR đã trở nên rất thông dụng với ngưỡng cần chú ý là 0,5. Phân tích tổng hợp cho thấy so sánh với BMI, giá trị dự báo các biến cố tim mạch nặng của WC cải thiện hơn 3% (p<0,05), WHtR cải thiện hơn 4-5% (p<0,001). Quan trọng nữa là WHtR tốt hơn so với WC (p <0,005) trên tăng huyết áp, đái tháo đường, bệnh tim mạch và các biến cố mạch máu trên cả hai giới. Mục tiêu: khảo sát tỷ lệ vòng bụng trên chiều cao (WHtR) trên bệnh nhân bệnh mạch vành và tìm hiểu giá trị của WHtR so với các phương pháp đo đạc chỉ số nhân trắc truyền thống BMI, WC, WHR trong dự đoán các yếu tố nguy cơ tim mạch. Đối tượng và phương pháp: nghiên cứu trên 160 bệnh nhân hẹp động mạch vành do vữa xơ khẳng định qua chụp động mạch vành (129 nam, 31 nữ), tuổi trung bình 61,7 ± 8,6, điều trị tại Bệnh viện 19-8. Phương pháp nghiên cứu mô tả cắt ngang. Các chỉ số WHtR, BMI, WC, WHR được so sánh trong mối liên quan với các thông số đánh giá nguy cơ và biến chứng tim mạch: Cholesterol máu (CHO), LDL-C máu, Triglycerid máu (TRI), glucose máu (GLU), thời gian mắc bệnh động mạch vành, tình trạng kháng aspirin (Aspirin Resistance – AR). Số liệu xử lý bằng SPSS 18.0. Kết quả: tăng WC có liên quan đến TRI, LDL-C, thời gian mắc bệnh mạch vành và kháng aspirin (p <0,05). Tăng BMI có liên quan đến GLU và kháng aspirin (p <0,05). Tăng WHR có liên quan đến CHO, TRI, và kháng aspirin (p <0,05). Tăng WHtR có liên quan đến CHO, TRI, LDL-C, thời gian mắc bệnh mạch vành và kháng aspirin (p <0,05). Khảo sát đường cong ROC (Receiver Operating Characteristic) để so sánh giá trị của các phương pháp cho thấy: WHtR có giá trị nhất để dự báo các chỉ số tăng Cholesterol máu, tăng Triglycerid máu, tăng LDL-C máu và Kháng aspirin (AUC = 64,7%, 66,3%, 64,2% và 82% tương ứng với p <0,05), tiếp theo là WC với dự báo tăng Triglycerid máu, tăng LDL-C máu và Kháng aspirin (AUC = 62,7%, 57,1% và 81,3% với p <0,05), WHR với dự báo tăng Cholesterol máu và Kháng aspirin (AUC = 63,3% và 76,7% với p <0,05) và BMI với tăng Triglycerid máu (AUC = 65,7% với p <0,05). Kết luận:WHtR có giá trị nhất trong dự đoán các yếu tố đánh giá nguy cơ và biến chứng tim mạch trên bệnh nhân bệnh mạch vành khi so sánh với các chỉ số truyền thống, tiếp theo là WC, WHR, BMI.
Từ khóa: Vòng bụng, chỉ số khối cơ thể, vòng bụng trên vòng mông, vòng bụng trên chiều cao, bệnh mạch vành, rối loạn lipid máu, kháng aspirin.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Nguyễn Thị Thu Hậu, Nguyễn Thị Mỹ Diệp, Nguyễn Thu Dung, Mai Quang Huỳnh Mai, Nguyễn Hoàng Thanh Uyên, Nguyễn Thị Kim Hoàng, Nguyễn Thị Hoài Phương, Nguyễn Thị Kiều Thu (2010). Vai trò của tỉ lệ vòng eo/chiều cao trong kiểm soát tình trạng béo phì ở trẻ em.Tạp chí Dinh dưỡng và Thực phẩm – Tập 6 – số 1 – Tháng 4 năm 2010.
- Quách Hữu Trung, Lý Tuấn Khải (2014). Nghiên cứu kháng aspirin ở bệnh nhân đái tháo đường týp 2.Tạp chí Y học Việt Nam, số 2 tháng 9, tr 79-83.
- Quách Hữu Trung, Vũ Điện Biên, Lý Tuấn Khải (2015). Đặc điểm kháng aspirin trên 425 bệnh nhân có nguy cơ tim mạch cao.Tạp chí Y học Công an, số 14, tháng 9/2015, tr 50-54.
- Margaret Ashwell and Shiun Dong Hsieh (2005). Six reasons why the waist-to-height ratio is a rapid and effective global indicator for health risks of obesity and how its use could simplify the international public health message on obesity.International Journal of Food Sciences and Nutrition (2005), 56 (5). 303 – 307.
- Patrícia Chagas (2011). Association of Different Anthropometric Measures and Indices with Coronary Atherosclerotic Burden.Arq Bras Cardiol 2011;97(5):397-401.
- Dong et al (2015). Association between the abdominal obesity anthropometric indicators and metabolic disorders in a Chinese population.http:// dx.doi.org/10.1016/j.puhe.2015.08.001.
- Margaret Ashwell (2011). Charts Based on Body Mass Index and Waist-to-Height Ratio to Assess the Health Risks of Obesity: A Review.The Open Obesity Journal, 2011, 3, 78-84.
- Stephen J. Mooney, Aileen Baecker, Andrew G. Rundle (2013). Comparison of anthropometric and body composition measures as predictors of components of the metabolic syndrome in a clinical setting. Obesity Research & Clinical Practice (2013) 7, e55—e66.
- MI Sheng Quan et al (2013). BMI, WC, WHtR, VFI and BFI: Which Indictor is the Most Efficient Screening Index on Type 2 Diabetes in Chinese Community Population.Biomed Environ Sci, 2013; 26(6): 485-491.
- Ziqiang Zhou, Dayi Hu and Jie Chen (2008). Association between obesity indices and blood pressure or hypertension which index is the best.Public Health Nutrition: 12(8), 1061–1071.