NEW YORK (Reuters Health) – Một phân tích có mạng lưới thăm dò về dự phòng trong nội soi mật tuỵ ngược dòng (ERCP) cho thấy rằng diclofenac đặt trực tràng có thể được sử dụng thay thế cho indomethacin đặt trực tràng để giảm chi phí, những nhà nghiên cứu cho biết.
“Ít nhất là 50 tác nhân dự phòng khác nhau đã được điều tra để ngăn ngừa viêm tuỵ sau ERCP (PEP), và dựa vào những bằng chứng ở hiện tại, một vài loại tác nhân dự phòng tỏ ra có nhiều hứa hẹn nhất.” Dr. Venkata Akshintala của Tổ chức Y tế Johns Hopkins ở Baltimore nói với Reuters Health qua email. “Chúng bao gồm các loại thuốc kháng viêm non-steroid (NSAID), tiêm tĩnh mạch và đặt stent đường mật.”
Tuy nhiên, ông lưu ý rằng “đã có nhiều sự biến đổi về liều lượng, quá trình vận chuyển, và những loại thuốc hoặc stent phụ khiến nó trở thành thử thách cho các bác sĩ để lựa chọn biện pháp dự phòng tốt nhất cho bệnh nhân của mình.” Vì vậy, nghiên cứu hiện tại so sánh những tác nhân khác nhau và sự kết hợp giữa chúng.
“Indomethacin đặt trực tràng là NSAID phổ biến nhất được nghiên cứu và thường được khuyến cáo để dự phòng PEP, nhưng chúng tôi đã vô cùng ngạc nhiên khi diclofenac đặt trực tràng ít nhất là tương đương hoặc có khả năng vượt trội hơn.” Ông cho biết. “Điều này kéo theo vấn đề về chi phí rất lớn ở Mỹ, vì giá của indomethacin đặt trực tràng đã tăng mạnh từ 2 đô cho 100mg vào năm 2005 lên đến 340 đô vào năm 2019.
“Chúng tôi cũng xác định rằng việc bổ sung NSAIDs trực tràng với truyền dịch tĩnh mạch có thể góp phần thuận lợi dự phòng chống lại PEP.”, ông nói.
Theo báo cáo The Lancet Gastroenterology and Hepatology, 55 thử nghiệm ngẫu nhiên có kiểm soát đánh giá 20 can thiệp ở hơn 17000 bệnh nhân đã được đưa vào mạng lưới phân tích tổng hợp.
Tỷ lệ trung bình của viêm tuỵ sau ERCP ở nhóm sử dụng giả dược hoặc hoạt động kiểm soát là 12.2%. Ở so sánh theo cặp, nước muối sinh lý kết hợp với indometacin đặt trực tràng (OR 0.02), diclofenac 75mg tiêm bắp (0.24), Ringer’s lactate tiêm tĩnh mạch liều cao kết hợp diclofenac 100mg đặt trực tràng (0.30), Ringer’s lactate tiêm tĩnh mạch liều cao (0.31), stent tuỵ 5-7-Fr (0.35), diclofenac 100mg đặt trực tràng (0.36), stents tuỵ 3-Fr (0.47), và indomethacin 100mg đặt trực tràng (0.60, 0.50-0.73) tất cả đều có hiệu quả hơn giả dược trong việc ngăn ngừa PEP.
So với indomethacin 100mg đặt trực tràng, stent tuỵ 5-7 Fr (0.59), Ringer’s lactate tĩnh mạch liều cao kết hợp diclofenac 100mg đặt trực tràng (0.49), nước muối sinh lý tiêu chuẩn tiêm tĩnh mạch kết hợp với indomethacin 100mg đặt trực tràng (0.04), và diclofenac 100mg đặt trực tràng (0.59) có hiệu quả hơn.
Xếp loại mức độ tin cậy của GRADE từ thấp đến trung bình cho 98.3% những so sánh theo cặp.
Các tác giả đưa ra kết luận, “Diclofenac 100mg đặt trực tràng là loại NSAID đặt trực tràng hiệu quả nhất trong mạng lưới phân tích tổng hợp này. Sự kết hợp với điều trị dự phòng có thể hiệu quả hơn, tuy nhiên có rất ít bằng chứng. Những phát hiện này giúp thiết lập dự phòng viêm tuỵ sau ERCP cho những nghiên cứu trong tương lai và trong thực hành lâm sàng, có thể giảm chi phí và tăng cường dự phòng hơn”
Dr. Akshintala nói, “Chúng tôi cũng có thu thập dữ liệu ở mức độ từng bệnh nhân, điều mà chúng tôi đang sử dụng để tiến hành phân tích tổng hợp ở mức độ từng bệnh nhân và áp dụng phương pháp nghiên cứu dựa vào máy móc để hi vọng rằng có thể cung cấp biện pháp dự phòng PEP cá nhân hoá hơn cho từng bệnh nhân.”
Dr. Venkataraman Muthusamy, trưởng khoa nội soi tại UCLA Health, bàn luận qua điện thoại với Reuters Health, ” Nghiên cứu đã xác nhận điều mà nhiều người trong chúng ta còn nghi ngờ rằng kết hợp các liệu pháp dường như là tốt hơn so với từng liệu pháp đơn độc.”
“Trong khi các nghiên cứu khẳng định có tiềm năng là cần thiết,” ông nói, “những nhà nghiên cứu đã bỏ nhiều công sức để điều chỉnh các biến số và cung cấp bằng chứng “hé lộ” đáng tin cậy chỉ trong nhiều năm mà không cần phải mất nhiều thập kỷ để tích luỹ.”
“Ở Mỹ, indomethacin đặt trực tràng đang ngày càng đắt hơn,” ông lưu ý, “vì thế nên nghiên cứu tìm ra diclofenac đặt trực tràng liều 100mg có thể tốt hơn là thông tin có giá trị cho các bác sĩ lâm sàng.”
“Những nghiên cứu sâu hơn sẽ là điều cần thiết để xác định sự kết hợp các phương thức điều trị.
NGUỒN: https://bit.ly/3ilY4Qu The Lancet Gastroenterology and Hepatology, online June 29, 2021.
Link bài gốc: Rectal Diclofenac Likely Comparable to Rectal Indomethacin for Post-ERCP Pancreatitis
Bài viết được dịch thuật và biên tập bởi CLB Nội tiết trẻ trên DEMACVN.COM – Vui lòng không reup khi chưa được cho phép!
Người dịch: Lê Vy