Mối liên quan giữa tình trạng thiếu Vitamin D và thừa cân – béo phì

MỐI LIÊN QUAN GIỮA TÌNH TRẠNG THIẾU VITAMIN D VÀ THỪA CÂN – BÉO PHÌ

Nguyễn Trọng Nghĩa1*, Đào Thị Dừa1, Trần Thừa Nguyên1 Phạm Trung Hiếu1, Ngô Thị Quỳnh Chi 1, Nguyễn Thị Nhạn2

1. Bệnh viện Trung ương Huế

2. Bộ môn Nội, Trường Đại học Y Dược, Đại học Huế

DOI: 10.47122/vjde.2021.49.13

TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Béo phì là một bệnh viêm mạn tính đặc trưng bởi tăng tổng khối lượng mỡ trong cơ thể đủ lớn tạo ra hậu quả bất lợi cho sức khỏe và có liên quan đến tăng tỷ lệ mắc bệnh và tử vong. Tình trạng vitamin D thấp và béo phì đã đồng thời đạt đến mức độ dịch bệnh trên toàn thế giới. Tuy nhiên, bản chất của mối liên quan giữa tình trạng vitamin D thấp và béo phì vẫn chưa rõ ràng. Trên thế giới, nhiều nghiên cứu đã xác định mối liên quan giữa tình trạng thiếu vitamin D với béo phì. Tuy nhiên, kết quả của một số nghiên cứu khác còn mâu thuẫn và tranh luận. Xuất phát từ bối cảnh thực tế trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu “Mối liên quan giữa tình trạng thiếu vitamin D và thừa cân – béo phì”. Mục tiêu nghiên cứu: (1). Xác định tỷ lệ thiếu vitamin D và thừa cân–béo phì ở các đối tượng đến khám sức khỏe tổng quát tại Trung tâm điều trị theo Yêu cầu và Quốc tế – Bệnh viện Trung ương Huế. (2). Khảo sát mối liên quan giữa tình trạng thiếu vitamin D và thừa cân–béo phì ở đối tượng nghiên cứu. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Sử dụng phương pháp nghiên cứu mô tả cắt ngang ở 330 đối tượng người trưởng thành đến khám sức khỏe tại Trung tâm điều trị theo Yêu cầu và Quốc tế – Bệnh viện Trung ương Huế. Nồng độ 25-hydroxyvitamin D được đo bằng phương pháp xét nghiệm miễn dịch vi hạt hóa phát quang. Kết quả: Ở đối tượng nghiên cứu, tỷ lệ thiếu vitamin D và thừa cân – béo phì là 55,% và 56,4%. Tỷ lệ thiếu vitamin D ở đối tượng thừa cân–béo phì là 60,8% cao hơn đối tượng BMI bình thường là 47,9% (p < 0,05); Nồng độ 25(OH)D huyết hương có mối tương quan nghịch với BMI (r = -0,122, p < 0,05). Kết luận: Cần định lượng nồng độ 25-hydroxyvitamin D trong máu ở người thừa cân béo phì. Chúng tôi đề xuất các nghiên cứu dọc và can thiệp để làm rõ vai trò của vitamin D đối với tình trạng thừa cân – béo phì.

Từ khóa: Thừa cân – béo phì, thiếu vitamin D.

ABSTRACT

The relationships between vitamin D insufficiency and overweight–obesity

Nguyen Trong Nghia1, Dao Thi Dua1, Tran Thua Nguyen1, Pham Trung Hieu1, Ngo Thi Quynh Chi1, Nguyen Thi Nhan2

1. Hue Central Hospital,

2. Department of Internal Medicine, Hue University of Medicine and Pharmacy

Background: Obesity is a chronic inflammatory disease characterized by an increased total body fat mass of sufficient magnitude to produce adverse health consequences, and is associated with increased morbidity and mortality. Low vitamin D status and obesity have concomitantly reached epidemic levels worldwide. However, the nature of the association between low vitamin D status and obesity remains unclear. In the world, a lot of research has investigated the relationships between Low vitamin D status and obesity. However, the results of other studies are conflicting and controversial. Therefore, we conducted a study: “The relationships between vitamin D status and overweight–obesity”. Objective: (1). Determine the prevalence of vitamin D insufficiency, and overweight–obesity in the subjects for general health examinations at the International Medical Center – Hue Central Hospital. (2). Investigate the relationships between vitamin D status and overweight–obesity in the study subjects. Material and method: A cross-sectional study on 320 adult subjects for health examinations at International Medical Center at Hue Central Hospital. Plasma hydroxyvitamin D concentration was measured using chemiluminescent microparticle immunoassay. Results: In the study subjects, the prevalence of vitamin D insufficiency, and overweight– obesity were 55,2% and 56,4%. Vitamin D insufficiency prevalence in subjects with overweight–obesity was 60,8% higher than subjects with normal BMI was 47,9% (p < 0,001). There was an inverse relationship between the plasma 25-hydroxyvitamin D concentration and BMI (r = -0,122, p < 0,05). Conclusion: It is necessary to perform a 25(OH)D test in people with overweight– obesity. We propose the prospective and intervention studies of vitamin D in subjects with with overweight–obesity status.

Key words: Overweight–obesity, vitamin D insufficiency.

Chịu trách nhiệm chính: Nguyễn Trọng Nghĩa

Ngày nhận bài: 05/6/2021

Ngày phản biện khoa học: 10/6/2021

Ngày duyệt bài: 27/7/2021

Email: [email protected]

Điện thoại: 0914457896

1. ĐẶT VẤN ĐỀ

Béo phì là một bệnh viêm mạn tính đặc trưng bởi tăng tổng khối lượng mỡ trong cơ thể đủ lớn tạo ra hậu quả bất lợi cho sức khỏe và có liên quan đến tăng tỷ lệ mắc bệnh và tử vong. Từ năm 1975, gánh nặng của béo phì đã tăng ít nhất ba lần trên toàn thế giới. Năm 2016, 39% số người trưởng thành bị thừa cân và 13% bị béo phì [15].

Tình trạng vitamin D thấp và béo phì đã đồng thời đạt đến mức độ dịch bệnh trên toàn thế giới [12]. Tuy nhiên, bản chất của mối liên quan giữa tình trạng vitamin D thấp và béo phì vẫn chưa rõ ràng. Thực tế này đã thúc đẩy cộng đồng khoa học tiến hành phân tích mối liên quan giữa tình trạng vitamin D và béo phì. Kết quả của các nghiên cứu đã xác định cơ chế phân tử của mối liên quan giữa nồng độ 25-hydroxyvitamin D và béo phì. Vitamin D có đặc tính hòa tan trong chất béo, được giữ lại bởi mô mỡ và có khả năng chuyển hóa 25- hydroxyvitamin D cục bộ, và điều này có thể bị thay đổi trong quá trình béo phì. Ngoài ra, vitamin D có khả năng điều hòa biểu hiện gen liên quan đến quá trình tạo mỡ, viêm, stress oxy hóa và chuyển hóa ở tế bào mỡ trưởng thành [10].

Xuất phát từ bối cảnh thực tế trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu “Mối liên quan giữa tình trạng thiếu vitamin D và thừa cân – béo phì” với mục tiêu sau:

(1). Xác định tỷ lệ thiếu vitamin D và thừa cân – béo phì ở các đối tượng đến khám sức khỏe tổng quát tại Trung tâm điều trị theo Yêu cầu và Quốc tế – Bệnh viện Trung ương Huế.

(2). Khảo sát mối liên quan giữa tình trạng thiếu vitamin D và thừa cân – béo phì ở tượng nghiên cứu.

2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

 2.1. Đối tượng nghiên cứu: Gồm 320 người đến khám sức khỏe tổng quát tại Trung tâm điều trị theo Yêu cầu và Quốc tế–Bệnh viện Trung ương Huế, đồng ý tham gia nghiên cứu và không có các yếu tố của tiêu chuẩn loại trừ.

 Qua thăm khám lâm sàng kết hợp với hỏi tiền sử, bệnh sử và dựa theo sổ theo dõi sức khỏe, chúng tôi loại trừ các đối tượng sau: Các đối tượng không đồng ý tham gia nghiên cứu; Đang: mang thai, sử dụng các thuốc có chứa vitamin D, mắc các bệnh cấp tính; Các đối tượng có bệnh lý mạn tính như: Xơ gan, suy thận mạn, bệnh tuyến cận giáp, loãng xương, nhuyễn xương, dùng corticoid dài ngày (> 1 tháng); Các đối tượng: bị dị tật vùng bụng, cột sống lồng ngực, không thể tự đứng được, sa sút trí tuệ nặng.

 2.2. Phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang. Các biến số nghiên cứu bao gồm tuổi, giới, chỉ số khối cơ thể (BMI: Body Mass Index), và nồng độ 25-hydroxyvitamin D [25(OH)D] huyết tương được đo bằng phương pháp xét nghiệm miễn dịch vi hạt hóa phát quang được tiến hành tại Trung tâm điều trị theo Yêu cầu và Quốc tế – Bệnh viện Trung ương Huế. Trong nghiên cứu của chúng tôi: Thiếu vitamin D theo tiêu chuẩn của Hội Nội tiết Mỹ (2011) [8]: Nồng độ 25(OH)D huyết

tương < 30 ng/mL, được chúng tôi sử dụng làm điểm cắt; Chẩn đoán thừa cân–béo phì theo Tổ chức Y tế Thế giới năm 2000 dành cho người trưởng thành Châu Á [16] khi: BMI > 23,0; Công thức tính BMI = Cân nặng (kg)/[Chiều cao (m)]2

Cỡ mẫu: Áp dụng công thức tính cỡ mẫu:

Z1-α/2 = 1,96 tương ứng với độ tin cậy 95%.

p: Tỷ lệ thiếu vitamin D ở các đối tượng đi khám sức khỏe trong nghiên cứu của tác giả Gradillas-García A và cộng sự là 89,4% [6], nên chúng tôi chọn p = 0,894.

d: Sai số tuyệt đối bằng 0,04.

n: Số người tham gia nghiên cứu. Tính ra cỡ mẫu tối thiểu n = 228.

Chúng tôi tiến hành chọn mẫu thuận tiện cho đến khi đủ số lượng của cỡ mẫu. Trong nghiên cứu này, chúng tôi tiến hành trên 330 đối tượng.

Xử lý và phân tích số liệu: Bằng phương pháp thống kê y học, sử dụng phần mềm thống kê SPSS (Statistical Package for Social Sciences) phiên bản 25.0 và Medcalc phiên bản 19.1.3.

3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Nghiên cứu trên 330 người đến khám sức khỏe tổng quát, chúng tôi ghi nhận các kết quả như sau:

Bảng 3.1. Tỷ lệ thiếu vitamin D ở đối tượng nghiên cứu

Nhận xét: Ở đối tượng nghiên cứu, có 153 đối tượng nam chiếm tỷ lệ 46,4%, có 177 đối tượng nữ chiếm tỷ lệ 53,6%. Có 182 đối tượng thiếu vitamin D, chiếm tỷ lệ 55,2%. Tỷ lệ thiếu vitamin D ở nữ giới (68,4%) cao hơn nam giới (39,9%) có ý nghĩa thống kê (p < 0,001).

Bảng 3.2. Đặc điểm chỉ số khối cơ thể ở đối tượng nghiên cứu

Nhận xét: Ở đối tượng nghiên cứu, có 186 đối tượng thừa cân – béo phì, chiếm tỷ lệ 56,4%. Chỉ số khối cơ thể ở nữ giới và nam giới không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p > 0,05).

Bảng 3.3. Tỷ lệ thiếu vitamin D theo chỉ số khối cơ thể ở đối tượng nghiên cứu

Nhận xét: Tỷ lệ thiếu vitamin D ở đối tượng thừa cân–béo phì là 60,8% cao hơn đối tượng chỉ số khối cơ thể bình thường là 47,9% (p < 0,05). Trung vị (khoảng tứ phân vị) nồng độ 25(OH)D huyết tương ở đối tượng chỉ số khối cơ thể bình thường cao hơn đối tượng thừa cân–béo phì có ý nghĩa thống kê (p < 0,05).

Biểu đồ 3.2. Tương quan giữa nồng độ 25(OHD huyết tương và chỉ số khối cơ thể ở đối tượng nghiên cứu

Nhận xét: Nồng độ 25(OH)D huyết tương có mối tương quan nghịch với chỉ số khối cơ thể có ý nghĩa thống kê (r = -0,122, p < 0,05)

4. BÀN LUẬN

Trong nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận ở 320 đối tượng đến khám sức khỏe tổng quát có tỷ lệ thiếu vitamin D là 55,2% và tỷ lệ thiếu vitamin D ở nữ giới (68,4%) cao hơn nam giới (39,9%). Ở Việt Nam, tỷ lệ thiếu vitamin D ở phụ nữ sống tại Hà Nội và Hải Dương là 48% [7], của người dân sống tại thành phố Hồ Chí Minh ở nam giới có tỷ lệ là 20% và nữ giới là 46% [9]. Trên thế giới, tỷ lệ thiếu vitamin D trong nghiên cứu đa trung tâm ở Trung Quốc lên tới 94,6% [18]. Kiểm tra quy mô lớn nhất về tình trạng vitamin D ở người Thái Lan đã báo cáo tỷ lệ thiếu vitamin D là 45,2% [2]. Như vậy, chúng tôi nhận định tỷ lệ thiếu vitamin D có nhiều trị số kết quả khác nhau có thể phụ thuộc vào đối tượng nghiên cứu, chủng tộc, vĩ độ, mùa, labo xét nghiệm, phương pháp định lượng,… Kết quả của các nghiên cứu đã cho thấy sự khác biệt về nồng độ 25(OH)D trong máu theo giới tính. Genzen JR và cộng sự (2013) nghiên cứu tình trạng vitamin D của 715769 mẫu trong cộng đồng ở Mỹ đã ghi nhận nồng độ 25(OH)D trong máu cao hơn ở nam giới so với nữ giới [4]. Kết quả nghiên cứu của Yan X và cộng sự (2019) cũng ghi nhận nồng độ 25(OH)D trong máu ở nữ giới thấp hơn nam giới [17]. Như vậy, sự khác biệt về lượng mỡ dưới da giữa nam giới và nữ giới có thể là một trong những lý do chính cho sự khác biệt về nồng độ 25(OH)D trong máu theo giới tính. Nữ giới có nhiều mỡ dưới da hơn nam giới, trong khi đó, vitamin D là một hormon hòa tan trong chất béo và mô mỡ dưới da có thể lưu trữ một lượng lớn vitamin D. Do đó, lượng mỡ dưới da lớn hơn ở nữ giới chiếm nhiều phân tử vitamin D được sản xuất từ quá trình quang phân ở da, dẫn đến ít phân tử vitamin D đi vào lưu thông trong máu ở nữ giới hơn nam giới. Ngoài ra, lượng mỡ nội tạng ở nữ giới có liên quan chặt chẽ với nồng độ estrogen, từ đó ảnh hưởng đến nồng độ 25(OH)D trong máu.

Trong nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận có 186 đối tượng thừa cân–béo phì, chiếm tỷ lệ 56,4%. Chỉ số khối cơ thể ở nữ giới và nam giới không có sự khác biệt (p > 0,05). Theo Tổ chức Y tế Thế giới, tỷ lệ béo phì trên toàn thế giới tăng gần gấp ba lần từ năm 1975 đến năm 2016. Ước tính có hơn 650 triệu người trưởng thành bị béo phì, trong đó có khoảng 13% dân số trưởng thành trên thế giới (11% nam giới và 15% nữ giới) bị béo phì và có 1,9 tỷ người trưởng thành trên 18 tuổi bị thừa cân, chiếm 39% người trưởng thành từ 18 tuổi trở lên (39% nam giới và 40% nữ giới) [15]. Tỷ lệ người thừa cân, béo phì tại Việt Nam tăng từ 8,5% năm 2010 lên thành 19,0% năm 2020, trong đó khu vực thành thị tỷ lệ này là 26,8%, nông thôn là 18,3% và miền núi là 6,9% [13]. Tỷ lệ béo phì gia tăng theo tuổi, ở nữ cao hơn ở nam, thành thị cao hơn ở nông thôn. Các yếu tố liên quan đến thừa cân, béo phì là khẩu phần ăn giàu thức ăn động vật, thói quen ăn ở ngoài gia đình, tăng sử dụng thức ăn nhanh, lạm dụng rượu, bia và ít vận động [3].

Trong nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận tỷ lệ thiếu vitamin D ở đối tượng thừa cân–béo phì là 60,8% cao hơn đối tượng chỉ số khối cơ thể bình thường là 47,9% (p < 0,05); nồng độ 25(OH)D huyết tương ở đối tượng chỉ số khối cơ thể bình thường cao hơn đối tượng thừa cân–béo phì (p < 0,05); nồng độ 25(OH)D huyết tương có mối tương quan nghịch với chỉ số khối cơ thể có ý nghĩa thống kê (r = -0,122, p < 0,05). Các nghiên cứu trên thế giới cũng đã chứng minh mối liên quan giữa thiếu vitamin D và béo phì. Vigna L và cộng sự (2017) đã nghiên cứu mối liên quan giữa nồng độ 25(OH)D trong máu với giới tính, thừa cân, kháng insulin và viêm trong một đoàn hệ cắt

ngang ở Bắc Ý đã ghi nhận ở nhóm đối tượng thừa cân có tỷ lệ thiếu vitamin D là 27,38% và đã xác định mối tương quan nghịch giữa nồng độ 25(OH)D trong máu với BMI [14]. Tương tự, kết nghiên cứu của Barja-Fernández S và cộng sự (2018) đã ghi nhận có mối tương quan nghịch của BMI và tuổi với tình trạng vitamin D trên 471 trẻ em và thanh thiếu niên (2 – 18 tuổi), đáng chú ý, trong mô hình hồi quy tuyến tính cho thấy 39,6% của biến thiên nồng độ 25(OH)D trong máu được giải thích bằng BMI [1]. Nồng độ 25(OH)D lưu hành trong máu được xác định một phần bởi các yếu tố di truyền. Các biến thể di truyền thụ thể vitamin D có liên quan đến béo phì trong một số nghiên cứu. Cơ chế phân tử của mối liên quan giữa thiếu vitamin D và béo phì là tác động của vitamin D trong điều hòa biểu hiện gen liên quan đến quá trình tạo mỡ, viêm, stress oxy hóa và chuyển hóa ở các tế bào mỡ trưởng thành [10].

Mô mỡ được chứng minh kho lưu trữ và mô đích cho tác dụng sinh học của vitamin D. Thiếu vitamin D và sự gia tăng nhanh chóng tỷ lệ bệnh béo phì, làm gia tăng tử suất và bệnh suất tim mạch. Vai trò cổ điển của vitamin D là tham gia quá trình chuyển hóa xương, ngoài ra còn tham gia nhiều hoạt động sinh lý chuyển hóa khác, nên thiếu vitamin D sẽ góp phần gây bệnh béo phì. Do đó, hiểu được cơ chế hoạt động của vitamin D trong tế bào mỡ có thể có tác động đáng kể đến việc duy trì sức khỏe chuyển hóa.

5. KẾT LUẬN

Cần định lượng nồng độ 25-hydroxyvitamin D trong máu ở người thừa cân – béo phì. Chúng tôi đề xuất các nghiên cứu dọc và can thiệp để làm rõ vai trò của vitamin D đối với tình trạng thừa cân – béo phì.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Barja-Fernández S, Aguilera CM, Martínez-Silva I, Vazquez R, Gil- Campos M, Olza J et al (2018), “25-Hydroxyvitamin D levels of children are inversely related to adiposity assessed by body mass index”, Journal of physiology and biochemistry, 74 (1), pp. 111-118.
  2. Chailurkit L-O, Aekplakorn W, Ongphiphadhanakul B (2011), “Regional variation and determinants of vitamin D status in sunshine-abundant Thailand”, BMC public health. 11, pp. 853-853.
  3. Chiến lược quốc gia về dinh dưỡng giai đoạn 2001–2010 (2007), Thừa cân– béo phì và một số yếu tố liên quan ở người trưởng thành Việt Nam 25 – 64 tuổi, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội, 2007.
  4. Genzen JR, Gosselin JT, Wilson TC, Racila E, Krasowski MD (2013), “Analysis of vitamin D status at two academic medical centers and a national reference laboratory: result patterns vary by age, gender, season, and patient location”, BMC endocrine disorders, 13 (1), pp. 52.
  5. González H. (2016), Overview of Obesity, Managing Patients with Obesity. Adis, Cham, pp 1-4.
  6. Gradillas-García A, Álvarez J, Rubio JA, de Abajo FJ (2015), “Relationship between vitamin D deficiency and metabolic syndrome in adult population of the Community of Madrid”, Endocrinología y Nutrición (English Edition), 62 (4), pp. 180-187.
  7. Hien VTT, Lam NT, Skeaff CM, Todd J, McLean JM, Green TJ (2012), “Vitamin D status of pregnant and non-pregnant women of reproductive age living in Hanoi City and the Hai Duong province of Vietnam”, Maternal & Child Nutrition, 8 (4), pp. 533-539.
  8. Holick MF, Binkley NC, Bischoff-Ferrari HA, Gordon CM, Hanley DA, Heaney RP et al (2011), “Evaluation, treatment, and prevention of vitamin D deficiency: an Endocrine Society clinical practice guideline”, The Journal of Clinical Endocrinology & Metabolism, 96 (7), pp. 1911-1930. 18.
  9. Ho-Pham LT, Nguyen ND, Lai TQ, Eisman JA, Nguyen TV (2010), “Vitamin D status and parathyroid hormone in a urbanpopulationinVietnam”, Osteoporosis International, 22(1), pp. 241-248.
  10. Ruiz-Ojeda F. J. et al. (2018), “Genetic Factors and Molecular Mechanisms of Vitamin D and Obesity Relationship”, Annals of Nutrition and Metabolism, pp. 89-99.
  11. Ruiz-Ojeda FJ, Anguita-Ruiz A, Leis R, Aguilera CM (2018), “Genetic Factors and Molecular Mechanisms of Vitamin D and Obesity Relationship”, Annals of Nutrition and Metabolism, pp. 89-99.
  12. Savastano S. et al. (2017), Low vitamin D status and obesity: Role of nutritionist, Vol. 18, p. 215.
  13. Viện Dinh dưỡng, Bộ Y tế (2021). Kết quả Tổng điều tra dinh dưỡng toàn quốc 2017– 2020.
  14. Vigna L, Cassinelli L, Tirelli AS, Felicetta I, Napolitano F, Tomaino L et al (2017), “25(OH)D Levels in Relation to Gender, Overweight, Insulin Resistance, and Inflammation in a Cross-Sectional Cohort of Northern Italian Workers: Evidence in Support of Preventive Health Care Programs”, Journal of the American College of Nutrition, 36 (4), pp. 253-260.
  15. World Health Organization (WHO). Obesity and overweight. April 29, 2019. http://www.who.int/news-room/fact-sheets/detail/obesity-and-overweight. [Last Accessed April 2019.
  16. World Health Organization. Regional Office for the Western P (2000), The Asia-Pacific perspective: redefining obesity and its treatment, Sydney: Health Communications Australia, pp. 55.
  17. Yan X, Zhang N, Cheng S, Wang Z, Qin Y (2019), “Gender Differences in Vitamin D Status in China”, Medical science monitor: international medical journal of experimental and clinical research, pp. 7094-7099. Yu S, Fang H, Han J, Cheng X, Xia L, Li S et al (2015), “The high prevalence of hypovitaminosis D in China: a multicenter vitamin D status survey”, Medicine, 94 (8), pp. e585.
Print Friendly, PDF & Email

About dacdien

Check Also

Tình trạng suy dinh dưỡng cà một số yếu tố liên quan của người bệnh điều trị tại khoa Hồi sức tích cực – Chống độc bệnh viện Đa khoa tỉnh Tiền Giang năm 2022

TÌNH TRẠNG SUY DINH DƯỠNG VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN CỦA NGƯỜI BỆNH …