Nghiên cứu độ dày lớp nội trung mạc động mạch cảnh (C-IMT) ở bệnh nhân đái tháo đường typ 2 bị nhồi máu não

NGHIÊN CỨU ĐỘ DÀY LỚP NỘI TRUNG MẠC
ĐỘNG MẠCH CẢNH (C – IMT) Ở BỆNH NHÂN
ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TÝP 2 BỊ NHỒI MÁU NÃO

Nguyễn Tá Đông, Trầm Lợi Trần Tiên

Trung tâm Tim Mạch Huế

ABTRACT

Objectives: To assess the carotid IMT and to evaluate the relationship between IMT with cardiovascular rick factors in the diabetic patients with acute cerebral infarction.  Subjects: The type 2 diabetic patients with acute cerebral infarction and acute cerebral infarction group without diabetes (control group). Methods: Cut off and compared. Results: the IMTc of the type 2 diabetic patients with acute cerebral infarction was thicker than  control group (1,05 ± 0,26 mm and 0,81 ± 0,19 mm) (p<0,05). The patients had IMT ≥ 0,9 mm in diabetes group was higher than compared control group (75,00% and 22,00%) (p<0,05). Mean IMTc value of the patients had HbA1C ≥ 7% was thicker than  group had HbA1C < 7% (1,12 ± 0,28 mm and 0,93 ± 0,17 mm) (p<0,05). In the same risk of artherosclerosic index (Non-HDL-C ≥ 4,2 mmol/l, TC/HDL-C  ≥ 4, LDL-C/HDL-C  ≥ 2), The thickness of IMTc of acute cerebral infarction with diabetes group also was thicker than  control group.             Conclusions: IMTc of the diabetic patients with acute cerebral infarction  was thicker than non diabetic patients with acute cerebral infarction. There was relationship  between  IMTc in the patients with acute cerebral infarction and diabete mellitus type 2 with age, HbA1C, TC/HDL-C and LDL-C/HDL-C.

Chịu trách nhiệm chính: Nguyễn Tá Đông

Ngày nhận bài: 1.10.2015

Ngày phản biện khoa học:15.11.2015

Ngày duyệt bài: 15.11.2015

I. ĐẶT VẤN ĐỀ

Có rất nhiều yếu tố nguy cơ gây xơ vữa động mạch dẫn đến nhồi máu não như tuổi, giới tính, hút thuốc lá, béo phì, tăng lipid máu, tăng huyết áp, rối loạn chức năng đông máu, đái tháo đường (ĐTĐ)…, trong đó đái tháo đường được xem là một trong những yếu tố hàng đầu gây xơ vữa mạch máu. Theo một số nghiên cứu, bệnh nhân đái tháo đường có nguy cơ bị tai biến mạch máu não gấp 2-6 lần. Đặc biệt, đái tháo đường là một trong những nguy cơ gây tai biến mạch máu não ở người trẻ tuổi. Vì thế, việc phát hiện và sàng lọc các biến chứng của đái tháo đường gây TBMMN ở bệnh nhân cần được đặt ra. Việc lựa chọn một phương pháp thăm dò không xâm nhập, hiện đại nhằm khảo sát được hình thái, cấu trúc và bệnh lí tim mạch; cũng như phát hiện tình trạng xơ vữa các mạch máu lớn thông qua siêu âm Doppler động mạch cảnh ở bệnh nhân đái tháo đường là hết sức cần thiết. Vì vậy, chúng tôi thực hiện đề tài Nghiên cứu độ dày lớp nội trung mạc động mạch cảnh bằng siêu âm Doppler ở bệnh nhân đái tháo đường týp 2 bị nhồi máu não” với 2 mục tiêu nghiên cứu sau:

  1. Khảo sát tổn thương động mạch cảnh bằng siêu âm Doppler ở bệnh nhân đái tháo đường bị nhồi máu não giai đoạn cấp.
  2. Đánh giá mối liên quan giữa một số yếu tố nguy cơ tim mạch với các tổn thương động mạch cảnh trên những bệnh nhân này.

II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

1. Đối tượng nghiên cứu:

+ Nhóm bệnh

Nhóm bệnh gồm những bệnh nhân được chẩn đoán đái tháo đường bị nhồi máu não giai đoạn cấp có thang điểm Glasgow ≥ 8 điểm nhập viện tại Khoa Nội tim mạch BV TW Huế.Tiêu chuẩn chẩn đoán đái tháo đường: Dựa theo tiêu chuẩn chẩn đoán ĐTĐ của ADA 2011, hoặc có tiền sử ĐTĐ týp 2 đã được chẩn đoán và điều trị

* Tiêu chuẩn chẩn đoán nhồi máu não: Thời gian thiết lập triệu chứng, dấu thần kinh khu trú và/ hoặc là dựa trên kết quả chụp cắt lớp vi tính: Hình ảnh nhồi máu não được biểu hiện bằng vùng giảm tỷ trọng 20 – 30 HU trên phim CT -scan.

+ Nhóm đối chứng: Nhóm đối chứng gồm những bệnh nhân không đái tháo đường nhưng bị nhồi máu não.

  1. Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp mô tả cắt ngang

Chọn nhóm bệnh nhân bị nhồi máu não, phân ra hai nhóm là nhóm bệnh: bệnh nhân nhồi máu não có ĐTĐ týp 2 và nhóm chứng là bệnh nhân nhồi máu não nhưng không
bị ĐTĐ.

Tất cả đều được khám lâm sàng, xét nghiệm sinh hóa, huyết học và khảo sát siêu âm doppler ĐM cảnh hai bên và đánh giá độ dày lớp nội trung mạc:

* Vị trí đo IMT: đo bề dày lớp nội trung mạc ở thành sau ĐMCa chung trước chỗ chia đôi khoảng 10 mm ở cả 2 bên phải và trái.

* Cách đo IMT: Bề dày lớp nội trung mạc được đo từ điểm trên bề mặt của lớp nội mạc ở phía trong lòng mạch, đó là lớp tăng âm đầu tiên, ngang qua vùng giảm âm, đến điểm nằm trên ranh giới của lớp ngoại trung mạc, và đó là lớp giảm âm thứ hai, đo vuông góc với thành mạch.

* Cách tính kết quả IMT: đo ít  nhất 3 vị trí khác nhau ở vùng khảo sát, lấy bề dày lớn nhất và bé nhất, sau đó IMT được tính trung bình cộng .

Đánh giá kết quả: Ở người lớn IMT < 0,9 mm là bình thường, khi IMT từ 0,9 mm đến < 1,5 mm là dày nội trung mạc.

III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Qua nghiên cứu 40 bệnh nhân đái tháo đường bị nhồi máu não và 50 bệnh nhân nhồi máu não không đái tháo đường nhập viện tại Khoa Nội Tim mạch Bệnh viện Trung ương Huế từ tháng 5/2012 đến tháng 5/2013, chúng tôi đã thu được các kết quả sau đây:

1. Một số đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của đối tượng nghiên cứu:

Bảng 1: Tuổi, huyết áp, đường máu
và bilan lipide:

Bảng 2: Một số yếu tố nguy cơ khác:

2. Siêu âm doppler động mạch cảnh:

Bảng 3: Bề dày lớp nội trung mạc:

IMT trung bình của ĐM cảnh phải và ĐM cảnh trái của nhóm bệnh đều dày hơn có ý nghĩa so với nhóm chứng

Bảng 4: So sánh tỷ lệ dày IMT ở nhóm bệnh và nhóm đối chứng

Ở nhóm bệnh, tỷ lệ bệnh nhân có IMT ≥ 0,9 mm cao hơn so với nhóm đối chứng có ý nghĩa (p<0,05).

Bảng 5: Tỷ lệ có XVĐM cảnh giữa 2 nhóm nghiên cứu

Tỷ lệ bệnh nhân bị XVÐMCa ở nhóm bệnh cao hơn so với nhóm đối chứng chiếm có ý nghĩa (p < 0,05).

Bảng 6: Bề dày trung bình mảng xơ vữa động mạch cảnh

Bề dày trung bình của mảng xơ vữa ÐM cảnh chung bên phải và bên trái của nhóm bệnh đều dày hơn so với nhóm đối chứng có ý nghĩa (p < 0,05).

Bảng 7: Vị trí mãng xơ vữa động mạch cảnh của đối tượng nghiên cứu

Tỷ lệ bệnh nhân có MXV ở ĐM cảnh chung bên phải và bên trái ở nhóm bệnh đều cao hơn nhóm chứng có ý nghĩa (p<0,05).

Tỷ lệ bệnh nhân có MXV ở ĐM cảnh trong và chỗ chia đôi bên phải và bên trái của nhóm bệnh và nhóm đối chứng  khác nhau không có ý nghĩa (p>0,05).

Bảng 8: So sánh chỉ số trở kháng (RI) ở nhóm bệnh và nhóm đối chứng

Chỉ số trở kháng RI trung bình của động mạch cảnh chung bên phải và bên trái của nhóm bệnh ðều cao hõn của nhóm đối chứng có ý nghĩa (p<0,05).

Bảng 9: Tỷ lệ bệnh nhân có rối loạn chỉ số trở kháng RI

Tỷ lệ bệnh nhân có chỉ số trở kháng RI ≥ 0,7 ở nhóm bệnh cao hơn so với nhóm chứng có ý nghĩa (p < 0,05).

2.3. Ðộ dày lớp nội trung mạc động mạch cảnh với các yếu tố nguy cơ

Có sự tương quan giữa: Tuổi và  IMT ĐM cảnh (r = 0,264, p < 0,05); HbA1C và  IMT ĐM cảnh (r = 0,264, p < 0,05); TC/HDL-C và  IMT ĐMCa (r = 0,264, p < 0,05); LDL-C/HDL-C  và  IMT ĐM cảnh (r = 0,264, p < 0,05).

Đồ thị 1: Tương quan giữa IMT ĐM cảnh
với tuổi (r=0,264, p < 0,05)

Đồ thị 2: Tương quan giữa IMT ĐM cảnh với HbA1C(r=0,264; p < 0,05)

Đồ thị 3: Tương quan giữa IMT ĐM cảnh với TC/HDL-C(r=0,273; p < 0,05)

Đồ thị 4: Tương quan giữa IMT ĐM cảnh với LDL-C/HDL-C (r=0,291, p < 0,05)

2.5. Tương quan hồi quy đa biến giữa IMT với các yếu tố nguy cơ

R = 0,791; R2 hiệu chỉnh = 0,439

Phương trình hồi quy đa biến có dạng:

y = 0,197 + 0,008 × (Tuổi) + 0,053 × (HbA1C) + 0,214 × (Non-HDL-C) + 0,070 × (LDL-C/HDL-C). Trong phân tích đa biến cho thấy: Non-HDL-C, LDL-C/HDL-C, HbA1C, tuổi  là yếu tố ảnh hưởng quan trọng lên IMT.

BÀN LUẬN

Qua kết quả khảo sát siêu âm Doppler đánh giá độ dày lớp nội trung mạc động mạch cảnh chúng tôi nhận thấy:

1. Bề dày nội trung mạc (IMT)

Sự gia tăng IMT của động mạch cảnh là thước đo có giá trị lớn trong việc dự đoán trước bệnh lí động mạch vành và mạch máu não. Trong nghiên cứu này chúng tôi ghi nhận IMT trung bình của ĐMCa bên phải ở  nhóm bệnh nhân ĐTĐ týp 2 dày hơn so với nhóm đối chứng (1,06 ± 0,28 mm so với 0,81 ± 0,19 mm), (p<0,05); IMT trung bình của ĐMCa trái ở nhóm bệnh dày hơn so với nhóm đối chứng (1,03 ± 0,26 mm so với 0,80 ± 0,19 mm), (p<0,05); và IMT trung bình của ĐMCa ở nhóm bệnh cũng dày hơn so với nhóm đối chứng (1,05 ± 0,26 mm so với 0,81 ± 0,19 mm), (p<0,05).

Ngoài ra, kết quả nghiên cứu của chúng tôi còn cho thấy tỷ lệ bệnh nhân có IMT ≥ 0,9 mm ở nhóm bệnh chiếm 75% cao hơn ở nhóm đối chứng (chiếm 22%), và tỷ lệ bệnh nhân có IMT < 0,9 mm ở nhóm bệnh
chiếm 25% thấp hơn so với nhóm đối chứng (chiếm 78%).

Nguyễn Hải Thủy (1996) khi khảo sát 116 bệnh nhân đái tháo đường type 2 ở người lớn trên 60 tuổi ghi nhận IMT động mạch cảnh chung là 1,08 ± 0,45 mm [23]. Lê Nguyễn Thanh Hằng (2005) ghi nhận bệnh nhân đái tháo đường type 2 có bệnh mạch vành phối hợp, IMT ở nhóm bệnh nhân có mảng xơ vữa ĐMCa là 1,10 ± 0,74 mm, dày hơn nhiều so với nhóm bệnh nhân không có mảng xơ vữa kèm theo [7]. Nguyễn Xuân Đô (2010) khảo sát siêu âm Doppler ĐMCa của 90 bệnh nhân thừa cân – béo phì và 46 bệnh nhân nhóm đối chứng ghi nhận ở nhóm bệnh IMT động mạch cảnh bên phải là 0,87 ± 0,27 mm, bên trái là 0,86 ± 0,22 mm, trung bình là 0,88 ± 0,2 mm, còn ở nhóm đối chứng IMT động mạch cảnh trung bình là 0,84 ± 0,22 mm [6]. Võ Bảo Dũng, Nguyễn Hải Thủy và Hoàng Minh Lợi (2012) khảo sát IMT động mạch cảnh ở bệnh nhân ĐTĐ type 2 ghi nhận IMT động mạch cảnh ở nhóm bệnh dày hơn so với nhóm đối chứng (0,79 ± 0,19 mm so với 0,73 ± 0,11 mm) [5]. Pujia A và cộng sự (1994) khảo sát siêu âm ĐMCa bằng đầu dò 7,5 MHz ghi nhận IMT thành động mạch người bình thường là 0,79 ± 0,08 mm [54]. Yamasaki Y. và cộng sự (1994) khi khảo sát siêu âm ĐMCa ghi nhận IMT ở nhóm bình thường là 0,54 ± 0,09 mm, còn ở nhóm ĐTĐ phụ thuộc insuline là 0,69  ± 0,12 mm [57].

Có sự tương đồng qua các nghiên cứu trên, IMT động mạch cảnh ở nhóm bệnh nhân ĐTĐ bị NMN cao hơn so với nhóm bệnh nhân NMN mà không bị ĐTĐ. IMT động mạch cảnh đã được chứng minh là một yếu tố dự báo các biến cố tim mạch và là một dấu hiệu sớm của tiến trình xơ vữa động mạch.

2. Tương quan giữa bề dày lớp nội trung mạc ĐM cảnh với yếu tố nguy cơ:

+ Bề dày IMT ðộng mạch cảnh ở ðộ tuổi trên và dưới 70 của nhóm bệnh ĐTĐ týp 2 bị nhồi máu não ðều dày hõn so với nhóm ðối chứng (1,00 ± 0,35 mm so với 0,76 ± 0,13 mm và 1,08 ± 0,15 mm so với 0,85 ± 0,22 mm), (p <0,05). Nguyễn Hải Thủy (1996) khi nghiên cứu tổn thương mạch máu ở bệnh nhân ĐTĐ ghi nhận IMT động mạch cảnh  > 1 mm bắt đầu từ độ tuổi 40- 49 và xảy ra trước 10 năm so với nhóm đối chứng là 50- 59 tuổi. Độ dày lớp nội trung mạc động mạch cảnh ở bệnh nhân đái tháo đường type 2 cũng tăng dần theo tuổi: IMT > 1 mm ở nhóm bệnh nhân 60- 69 tuổi là 78,20 % và IMT > 1mm ở nhóm > 70 tuổi là 90,0% [23].

+ Tăng huyết áp là một yếu tố nguy cơ quan trọng đối với xơ vữa động mạch mà chủ yếu là bệnh mạch vành và bệnh mạch máu não. Lê Nguyễn Thanh Hằng (2005) ghi nhận IMT động mạch cảnh ở nhóm có THA dày hơn không đáng kể so với nhóm không THA (1,10 ± 0,78 mm so với 0,90 ± 0,34 mm), (p>0,05) [7]. Yu Lu Liang và cộng sự (2001) khi nghiên cứu ở 679 người từ 49- 82 tuổi ghi nhận có sự tương quan giữa IMT động mạch cảnh với THA (r = 0,56, p<0,05) [58].

+ IMT trung bình ở những bệnh nhân có HbA1C ≥ 7% dày hõn so với nhóm bệnh nhân có HbA1C < 7% (1,12 ± 0,28 mm so với  0,93 ± 0,17 mm), (p<0,05).  Nguyễn Hải Thủy (2008) ghi nhận IMT ở nhóm có glucose máu cao > 6,7 mmol/l là 1,18 ± 0,54 mm dày hơn nhóm glucose máu bình thường (1,06 ± 0,44 mm) Nguyễn Xuân Đô (2010) khi khảo sát siêu âm Doppler ĐMCa của 74 bệnh nhân ghi nhận nhóm nồng độ glucose máu cao có IMT là 0,98 ± 0,25 mm, dày hơn nhóm glucose máu bình thường (0,83 ± 0,18 mm),(p>0,05) [6]. Nguyễn Thị Thu Hương và cộng sự (2005) nghiên cứu ở 65 bệnh nhân ĐTĐ type 2 ghi nhận IMT ở ĐMCa chung là 0,97 ± 0,18 mm và ở máng cảnh là 1,16 ± 0,21 mm [9]. Mudrikova T và cộng sự (2002) khi nghiên cứu IMT ở ĐMCa chung của bệnh nhân ĐTĐ ghi nhận sự dày lên của IMT của ĐMCa chung ở bệnh nhân ĐTĐ type 2 là dấu chỉ điểm vữa xơ động mạch ở nhiều nơi của bệnh nhân ĐTĐ [51].

+ Non-HDL-C và tổn thương động mạch cảnh: IMT ở nhóm bệnh có Non-HDL-C ≥ 4,2 mmol/l là 0,91mm, dày hơn IMT của nhóm đối chứng là 0,60mm (p<0,05). Lê Nguyễn Thanh Hằng và Nguyễn Hải Thủy (2005) ghi nhận bệnh nhân có nồng độ Non-HDL-C ≥ 4,2 mmol/l chiếm 27,27% và IMT ở nhóm này là 0,95 ± 0,45 mm không cao hơn so với nhóm có nồng độ Non-HDL-C < 4,2 mmol/l là 1,17 ± 0,77 mm, (p>0,05) [7].

+ LDL-C/HDL-C và thương tổn động mạch cảnh: Bề dày IMT trung bình của nhóm bệnh nhân có chỉ số LDL-C/HDL-C ≥ 2 ở nhóm bệnh là 1,15 ± 0,27 mm dày hơn so với IMT nhóm đối chứng (1,04 ± 0,13 mm), (p<0,05). Điều này cho thấy ngoài sự liên quan mật thiết giữa tổn thương xơ vữa động mạch cảnh với bilan lipid máu còn có sự góp phần rất lớn của các yếu tố nguy cơ gây xơ vữa động mạch.

KẾT LUẬN

IMT của nhóm ĐTĐ týp 2 bị nhồi máu não dày hơn so với nhóm không ĐTĐ bị nhồi máu não (1,05 ± 0,26 mm so với 0,81 ± 0,19 mm), (p<0,05). Tỷ lệ bệnh nhân có IMT ≥ 0,9 mm nhóm bệnh ÐTÐ cao hõn so với nhóm bệnh không ÐTÐ bị nhồi máu não (75,00% so với 22,00%), (p<0,05).

Bề dày IMT động mạch cảnh ở  tuổi trên và dưới 70 của nhóm bệnh nhân ĐTĐ týp 2 bị nhồi máu não dày hơn so với nhóm đối chứng (1,08 ± 0,15 mm so với 0,85 ± 0,22 mm và 1,00 ± 0,35 mm so với 0,76 ± 0,13 mm), (p<0,05).IMT trung bình ở những bệnh nhân có HbA1C ≥ 7% dày hơn so với những bệnh nhân có HbA1C < 7% (1,12 ± 0,28 mm so với 0,93 ± 0,17 mm), (p<0,05).Trong cùng nguy cơ của chỉ số xõ vữa (Non-HDL-C ≥ 4,2 mmol/l, TC/HDL-C  ≥ 4, LDL-C/HDL-C  ≥ 2): Bề dày IMT nhóm bệnh nhân ĐTĐ týp 2 bị nhồi máu não cũng dày hõn so với nhóm đối chứng (p<0,05); Có sự tương quan giữa IMT ðộng mạch cảnh ở bệnh nhân ĐTĐ týp 2 bị nhồi máu não với tuổi (r = 0,264, p<0,05); HbA1C (r = 0,291, p<0,05); TC/HDL-C (r = 0,273, p<0,05); và LDL-C/HDL-C (r = 0,291, p<0,05).

TÓM TẮT

Mục tiêu: Khảo sát độ dày lớp nội trung mạc ĐMCa bằng siêu âm Doppler và đánh giá mối liên quan với một số YTNC tim mạch ở bệnh nhân ĐTĐ bị nhồi máu não giai đoạn cấp. Đối tượng: Bệnh nhân được chẩn đoán nhồi máu não giai đoạn cấp có ĐTĐ và nhóm đối chứng bệnh nhân bị nhồi máu não giai đoạn cấp nhưng không bị ĐTĐ. Phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang có so sánh. Kết quả: IMT của nhóm ĐTĐ týp 2 bị nhồi máu não dày hơn so với nhóm không ĐTĐ bị nhồi máu não (1,05 ± 0,26 mm so với 0,81 ± 0,19 mm), (p<0,05). Tỷ lệ bệnh nhân có IMT ≥ 0,9 mm nhóm bệnh ÐTÐ cao hõn so với nhóm bệnh không ÐTÐ bị nhồi máu não (75,00% so với 22,00%), (p<0,05). IMT trung bình ở những bệnh nhân có HbA1C ≥ 7% dày hõn so với những bệnh nhân có HbA1C < 7% (1,12 ± 0,28 mm so với 0,93 ± 0,17 mm), (p<0,05). Trong cùng nguy cõ của chỉ số xõ vữa (Non-HDL-C ≥ 4,2 mmol/l, TC/HDL-C  ≥ 4, LDL-C/HDL-C  ≥ 2), bề dày IMT nhóm bệnh nhân ĐTĐ týp 2 bị nhồi máu não cũng dày hõn so với nhóm ðối chứng. Kết luận: IMT của nhóm ĐTĐ týp 2 bị nhồi máu não dày hơn so với nhóm không ĐTĐ bị nhồi máu não. Có sự tương quan giữa IMTc ở bệnh nhân ĐTĐ týp 2 bị nhồi máu
não với t
uổi, HbA1C, TC/HDL-C và LDL-C/HDL-C.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Võ Bảo Dũng (2012), Nghiên cứu giãn mạch qua trung gian dòng chảy động mạch cánh tay và độ dày nội trung mạc động mạch cảnh ở bệnh nhân đái tháo đường type 2 mới phát hiện, Luận án tiến sĩ y học, Trường Đại học Y dược Huế.
  2. Nguyễn Xuân Đô (2010), Nghiên cứu đặc điểm siêu âm Doppler động mạch cảnh ở người trên 45 tuổi thừa cân – béo phì, Luận văn Thạc sĩ Y học, Trường Đại học Y
    dược Huế.
  3. Lê Nguyễn Thanh Hằng (2005), Khảo sát bề dày lớp nội trung mạc động mạch cảnh chung bằng siêu âm Doppler ở bệnh nhân đái tháo đường type 2 có bệnh mạch vành, Luận văn thạc sĩ y học của bác sĩ nội trú bệnh viện, Trường Đại học Y khoa Huế.
  4. Nguyễn Thị Thu Hương, Trần Đức Thọ, Đỗ Trung Quân (2005), Mối liên quan giữa Triglycerid máu sau ăn và độ dày nội trung mạc động mạch cảnh ở bệnh nhân ĐTĐ type 2, Kỷ yếu toàn văn các công trình nghiên cứu khoa học, Đại hội nội tiết và đái tháo đường quốc gia Việt Nam lần III tại Huế, tr. 919-925.
  5. Nguyễn Phước Bảo Quân (2012), Kỹ thuật siêu âm Doppler, Siêu âm Doppler mạch máu, NXB Đại học Huế, tr 34- 44.
  6. Nguyễn Hải Thủy (2006), Khảo sát tổn thương động mạch cảnh ở bệnh nhân trên 60 tuổi điều trị tại khoa Nội bệnh viện Trường Đại học Y dược Huế bằng siêu âm Doppler, Đề tài khoa học công nghệ cấp Bộ, Trường Đại học Y khoa Huế.
  7. Nguyễn Hải Thủy, Lê Chuyển, Lê Văn An (2008), Khảo sát bề dày lớp nội trung mạc và xơ vữa động mạch cảnh theo phân loại giai đoạn lâm sàng bệnh mạch máu não của Natali- Thevenet, Tạp chí y học thực hành, 616+617, tr, 771- 778.
  8. Schott Laura L (2004), Segment-Specific Effect of Cardiovascular Risk Factors on Carotid Artery Intima-Medial Thickness in Women at Midlife, Arteriosler Thromb Vasc Biol, 24(10), pp.1951-1956.
  9. Pujia A, Rubba R, Spencer M P (2004), Prevalence of extracranial carotid artery disease detectable by echo Doppler in an elderly population, Stroke, 23, pp.1399-1406.
  10. Yamasaki Y., Kawamori R. (1994), Atherosclerosis in carotid artery of young IDDM patients monitored by ultrasound high- resolution B-mode imagine, Diabetes, 43(5), pp.634-639.
  11. Zwiebel WJ, Crummy AB (2001), Sources of error in Doppler diagnosis of carotid occlusive disease, American Journal of Roentgenology, 137(1), pp.1-12.

About Hội Nội tiết & Đái tháo đường Miền Trung

Check Also

Khảo sát mối liên quan giữa vitamin D huyết thanh và một số các yếu tố liên quan đến tổn thương thận mạn ở bệnh nhân bệnh thận đái tháo đường

KHẢO SÁT MỐI LIÊN QUAN GIỮAVITAMIN D HUYẾT THANH VÀ MỘT SỐ CÁC YẾU TỐ …