Bệnh Đái tháo đường và COVID-19

BỆNH ĐÁI THÁO ĐƯỜNG VÀ COVID-19

Nguyễn Đức Hoàng1*, Trần Hữu Dàng2

1. Bệnh viện Trung ương Huế;

2. Trường Đại học Y Dược Huế

DOI: 10.47122/vjde.2021.49.2

TÓM TẮT

Bệnh nhân đái tháo đường là một trong những yếu tố nguy cơ không những làm tăng nhiễm trùng máu mà còn tiến triển nhanh chóng và tiên lượng nặng của COVID-19. Do vậy, bệnh nhân đái tháo đường cần theo dõi sát, tầm quan trọng của quá trình glycosyl hóa, protein đột biến của virus và ACE2r. Cần kiểm soát glucose máu tốt hơn ở những bệnh nhân tăng glucose máu lúc nhập viện. Tiền đái tháo đường và đái tháo đường là những cơ chế tiềm năng để làm chậm sự lây lan của COVID-19 và giảm các triệu chứng cũng như cải thiện kết quả điều trị. Chúng tôi biết rằng kiểm soát glucose máu là điều cần thiết đối với bệnh nhân COVID-19 và ngay cả bệnh nhân không nhiễm COVID-19. Tuy nhiên, tăng glucose máu vẫn là một yếu tố tiên lượng mạnh đối với tiên lượng của bệnh nhân COVID-19 nhập viện.

Từ khóa: BMI, COVID-19, đái tháo đường, ICU

ABSTRACT

Diabetes and Covid-19

Nguyen Duc Hoang1*, Tran Huu Dàng2

1. Hue Central Hospital;

2. Hue University of Medicine and Pharmacy

Patients with diabetes are one of the risk factors for not only increased sepsis but also rapid progression and severe prognosis of COVID-19. Therefore, patients with diabetes need to be closely monitored, the importance of glycosylation, viral protein mutations and ACE2r.

Better glycemic control is required in patients with hyperglycemia on admission. Pre-diabetes and diabetes are potential mechanisms for slowing the spread of COVID-19 and reducing symptoms and improving treatment outcomes. We know that glycemic control is essential for COVID-19 patients and even patients without COVID-19. However, hyperglycemia remains a strong prognostic factor for the prognosis of hospitalized COVID-19 patients.

Keywords: BMI, COVID-19, diabetes, ICU

Chịu trách nhiệm chính: Nguyễn Đức Hoàng

Ngày nhận bài: 5/6/2021

Ngày duyệt bài: 27/7/2021

Email: [email protected]

Điện thoại: 0914091359

1. MỞ ĐẦU

Đại dịch COVID-19, nguyên nhân do virus coronavirus 2 (SARS-CoV-2) gây hội chứng hô hấp cấp tính nặng, đã khiến gần hai trăm triệu người mắc phải, trong đó có hơn bốn triệu trường hợp tử vong [2].

Bệnh đái tháo đường (ĐTĐ) là một trong những bệnh mạn tính phổ biến nhất trên toàn thế giới và làm tăng đáng kể nguy cơ nhập viện và tử vong ở bệnh nhân COVID-19. Trong tổng quan này, chúng tôi xin thảo luận về tỷ lệ mắc, cơ chế sinh lý bệnh và kết quả của nhiễm COVID-19 ở bệnh nhân ĐTĐ. Đề xuất việc sử dụng thuốc cho bệnh nhân ĐTĐ và một số khuyến cáo trải nghiệm lâm sàng ở bệnh nhân ĐTĐ mắc COVID-19.

Đại dịch COVID-19 liên quan bệnh nền (mạn tính) có ý nghĩa tiên lượng và điều trị. Một trong những bệnh mạn tính thiết yếu là bệnh ĐTĐ ảnh hưởng của nó đến nhập viện, tỷ lệ tử vong, gánh nặng kinh tế. Hiện nay, trên thế giới có khoảng 500 triệu người mắc bệnh ĐTĐ và số này sẽ tăng 25% vào năm 2030 và 51% vào năm 2045. Theo các nghiên cứu khác nhau, tỷ lệ mắc bệnh ĐTĐ ở bệnh nhân COVID-19 dao động từ 5% đến 36% [3].

Theo các nhà nghiên cứu cho rằng cần nghiên cứu mối liên quan giữa bệnh ĐTĐ nhiễm COVID-19 trong dịch tễ học, sinh lý bệnh, tiên lượng và điều trị để đưa ra các khuyến cáo trong đại dịch này.

2. DỊCH TỄ HỌC COVID-19 TRÊN THẾ GIỚI

 Ngày 30/6/2021

3. TỶ  LỆ  MẮC  ĐTĐ  VÀ  MỨC  ĐỘ NẶNG VỀ LÂM SÀNG LIÊN QUAN COVID-19

Theo các nghiên cứu cho thấy bệnh nhân COVID-19, có tỉ lệ nam giới mắc ĐTĐ cao hơn nữ giới, tuổi càng lớn thì tỉ lệ ĐTĐ và THA ở bệnh nhân COVID-19 càng cao, nam có tỉ lệ tử vong cao hơn nữ. Theo nghiên cứu viện Quốc gia Ý (2020), trong số 23.188 tử vong do nhiễm COVID-19 thì có 70% là ở nam giới [7].

Theo Trung tâm Kiểm soát Hoa Kỳ (2020), nghiên cứu 7.162 bệnh nhân COVID-19 có tỷ lệ hiện mắc ĐTĐ lần lượt là 6%, 24% và 32%, tương ứng bệnh nhân không nhập viện, nhập viện không nằm khoa ICU, nằm khoa ICU, tương ứng [8]. Tại khoa ICU ở Ý, tỷ lệ mắc bệnh ĐTĐ là 17% ở bệnh nhân nhiễm COVID-19. Tại khoa ICU ở Anh, tỷ lệ mắc bệnh ĐTĐ là 18,3% ở bệnh nhân nhiễm COVID-19 [9]. Nghiên cứu ở Tây Ban Nha, tỷ lệ mắc bệnh ĐTĐ khá cao (30,05% so với 19,57%) ở những bệnh nhân đã chết so với những người sống sót. Nghiên cứu tại Vũ Hán, tỷ lệ mắc bệnh ĐTĐ là 35,3% ở khoa ICU. Tóm lại, một là bệnh ĐTĐ gia tăng đáng kể tỷ lệ tử vong (OR 3,62; KTC 95% 2,11–6,2; p <0,0001) là YTNC độc lập sau khi hiệu chỉnh tuổi, chủng tộc, giới tính, béo phì và THA (24). Hai là, tỷ lệ mắc bệnh ĐTĐ (31,8% so với 5,4%) và béo phì (39,8% so với 14,5%) tương ứng có ý nghĩa thống kê (p<0,001) ở nhóm nằm viện và không nhập viện [6].

Ngoài ra, chỉ số khối cơ thể (BMI) > 40 là một trong những YTNC nhập viện cao (OR 6,2, KTC 95%, 4,2-9,3) [6]. Bệnh béo phì vẫn làm tăng tỷ lệ tử vong. Béo phì nặng (BMI ≥ 35 kg / m2), lớn tuổi, nam giới có liên quan độc lập với tỷ lệ tử vong, thở oxy lưu lượng cao (HFNC) và nội khí quản.

Theo một phân tích 124 Trung Tâm ICU tại Pháp (2020), cho thấy tỷ lệ béo phì, béo phì nặng ở bệnh nhân COVID-19 tăng cao. Tần suất béo phì là 47,5% so với 25,8% ở nhóm chứng tại khoa ICU, và do ảnh hưởng béo phì, nhu cầu thở HFNC, đặt nội khí quản cao hơn [10]. Theo Crouse & cs. (2020), 74% bệnh nhân ĐTĐ bị béo phì. Sự tồn tại chung của cả hai yếu tố ĐTĐ và béo phì có thể được xem là một YTNC “tích lũy” đối với mức độ nặng của bệnh COVID-19.

4. BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG LÀ MỘT YTNC TỒI TỆ NHẤT

 Bệnh ĐTĐ có nguy cơ nhiễm trùng máu cao, đặc biệt là virus. Sự khác biệt trong phản ứng có thể là kết quả của mức độ tải lượng virus, đáp ứng miễn dịch của vật chủ, tuổi của bệnh nhân và sự hiện diện của các bệnh đi kèm.

 Bệnh nhân ĐTĐ típ 2 có liên quan đến bệnh mạn tính cấp do mô mỡ nội tạng quá mức gây ra. Tình trạng viêm này ảnh hưởng đến việc điều hòa glucose nội môi và độ nhạy insulin ngoại vi. Tăng glucose máu mạn tính và viêm có thể xác định phản ứng miễn dịch bất thường và không hiệu quả.

 Bệnh nhân ĐTĐ nhiễm COVID-19 có nguy cơ cao đó là tăng trạng thái đông máu quá mức và phản ứng viêm không kiểm soát được, điều này có thể góp phần dẫn đến kết quả điều trị kém hơn. Đặc biệt, tiền sử ĐTĐ glucose máu lúc đói ≥ 7,0 mmol/L trước khi điều trị steroid là những yếu tố dự báo tử vong độc lập với nguy cơ gia tăng lần lượt là 3,0 và 3,3 [11].

Trong một nghiên cứu gần đây trên 132 bệnh nhân ĐTĐ típ 2, nhận thấy có mối tương quan nghịch giữa SaO2 và HbA1c. Đồng thời, có mối tương quan thuận giữa mức độ ferritin huyết thanh, Protein phản ứng C, Fibrinogen, tốc độ máu lắng erythropoietine và HbA1c, đặc biệt với HbA1c ≥ 7,5% [12]. Nhiều nghiên cứu khác cũng cho thấy bệnh nhân ĐTĐ nhiễm COVID-19 thường liên quan đến mức độ nặng hoặc nguy kịch với tỷ lệ dao động từ 14-32% [13].

Theo nghiên cứu của Wu & cs. (2020) nghiên cứu 201 bệnh nhân ĐTĐ nhiễm COVID-19 cho thấy: tỷ lệ nguy cơ là 2,34 (95% CI, 1,35 đến 4,05; p = 0,002) đối với hội chứng suy hô hấp cấp tính (ARDS) khi nghiên cứu 201 bệnh nhân ĐTĐ – COVID-19. Một phân tích tổng hợp khác của 9 nghiên cứu từ Trung Quốc (n = 1.936) của Chen et al. thấy mối liên quan đáng kể giữa mức độ nặng của COVID-19 và bệnh ĐTĐ (OR, 2,67, KTC 95%; 1,91 đến 3,74; p <0,01) [14].

5. CƠ CHẾ DI TRUYỀN

Có một số yếu tố và cơ chế cụ thể khiến bệnh ĐTĐ dễ mắc các bệnh nhiễm trùng nói chung và có thể làm tăng tính nhạy cảm hoặc nguy cơ và mức độ nặng COVID-19. Các cơ chế tiềm năng có thể nâng cao tính nhạy cảm đối với bệnh nhân ĐTĐ nhiễm COVID-19 bao gồm vai trò của tăng glucose máu, liên kết tế bào ái lực cao hơn và sự xâm nhập của vi rút hiệu quả, giảm độ thanh thải của virus, giảm chức năng tế bào T, tăng nhạy cảm với tình trạng tăng viêm, hội chứng bão cytokine và sự hiện diện của CVD [15].

COVID-19 and diabetes mellitus: from pathophysiology to clinical management

5.1. Vai trò của tăng glucose máu

Tính nhạy cảm với SARS dường như chủ yếu phụ thuộc vào ái lực liên kết của tăng đột biến với thụ thể ACE2 của vật chủ (ACE2r) ở các mô đích trong bước gắn virus ban đầu [16]. Gần đây ACE2r đã được xác nhận là thụ thể nội hóa của SARS-CoV-2 gây ra COVID-19, kết hợp với protease màng TMPRSS2 của vật chủ có chức năng tạo ra protein S tăng đột biến của vi rút để tạo điều kiện xâm nhập tế bào của nó.

Mối liên hệ giữa tăng glucose máu và nồng độ ACE2r trong mức độ nặng của bệnh COVID-19 có thể là những thay đổi tiềm ẩn trong quá trình glycosyl hóa ACE2r và glycosyl hóa protein tăng đột biến của virus. Cả hai đều có thể do tăng glucose máu không kiểm soát được có thể làm thay đổi liên kết protein tăng đột biến của virus với ACE2r và mức độ phản ứng miễn dịch với virus [17]. Mức glucose máu tăng cao có thể trực tiếp làm tăng nồng độ glucose trong bài tiết đường thở. Trong trường hợp tăng glucose máu không kiểm soát, ACE2r được glycosyl hóa cao và không bình thường trong phổi, đường thở mũi, lưỡi và hầu họng cũng có thể đóng vai trò là các vị trí liên kết virus SARS-CoV-2 tăng lên, do đó dẫn đến xu hướng cao hơn đối với COVID-19 nhiễm trùng và một dạng bệnh nặng hơn [17]. Tăng glucose máu do stress là một trong những yếu tố tiên lượng xấu và có liên quan đến sự gia tăng đáng kể tình trạng suy hô hấp và tử vong ở những bệnh nhân COVID-19 [18].

Kiểm soát glucose máu có thể làm giảm mức độ của mục tiêu ACE2r được glycosyl hóa trong phổi. Theo cách này, số lượng các vị trí liên kết của virus glycosyl hóa giảm, có thể cải thiện tình trạng viêm và các triệu chứng của bệnh COVID-19 [17]. ACE2r không chỉ được biểu hiện ở các tế bào biểu mô phế nang và đường hô hấp trên, mà còn ở một số vị trí khác như tim, nội mô, biểu mô ống thận, biểu mô ruột và tuyến tụy [17].

Trong các nghiên cứu tiền lâm sàng, tăng và mất chức năng ACE2 cho thấy vai trò sinh lý và dược lý của ACE2, cả phụ thuộc và độc lập với Angiotensin [1], có thể đối kháng với các hoạt động của angiotensin II trong việc kiểm soát glucose và chức năng tế bào, sinh lý thận, huyết áp, xơ vữa động mạch và cải thiện bệnh đái tháo đường thực nghiệm [19].

Nhiễm trùng đường hô hấp do virus cấp tính có liên quan đến sự phát triển nhanh chóng của tình trạng kháng insulin thoáng qua, cả ở những người có cân nặng bình thường khỏe mạnh hoặc thừa cân. Mối liên hệ này gợi cơ chế tăng glucose máu thoáng qua gây ra bởi tình trạng viêm tạm thời của tế bào đảo tụy do SARS-CoV thông qua liên kết SARS-CoV với ACE2r có trên tế bào tiểu đảo, dẫn đến bệnh ĐTĐ phụ thuộc insulin thoáng qua, được giải quyết bằng giải quyết bệnh tật [20]. Tăng glucose máu cũng có thể ảnh hưởng đến chức năng phổi, do đó nó trở nên nặng hơn do rối loạn chức năng hô hấp do vi rút cúm gây ra ở bệnh nhân ĐTĐ. Bệnh ĐTĐ có liên quan đến nhiều thay đổi cấu trúc của phổi như tăng tính thấm của mạch và biểu mô phế nang bị xẹp. Tác giả Rao & cs. cho thấy rằng bệnh ĐTĐ có liên quan nhân quả với việc tăng biểu hiện ACE2 ở phổi [5]. Ở những bệnh nhân ĐTĐ, lượng glucose lưu thông cao hơn sẽ dẫn đến tỷ lệ hemoglobin cao hơn.

5.2. Chức năng tế bào t bị suy giảm – tăng phản ứng viêm quá mức

Sự hoạt hóa của các cytokine tiền viêm hoặc chemokine gây ra hiện tượng chết hoặc hoại tử các tế bào bị nhiễm trùng và gây ra các phản ứng viêm, dẫn đến việc tuyển dụng các tế bào viêm. Thông qua sản xuất interferon-gamma (IFN), các tế bào trợ giúp CD4 T (Th1) tham gia vào việc điều chỉnh sự trình bày kháng nguyên chống lại các mầm bệnh nội bào như CoV. Việc tuyển dụng bạch cầu trung tính và đại thực bào được thực hiện bởi các tế bào Th17 bằng cách sản xuất interleukin-17 (IL-17), IL-21 và IL-22 [14].

SARS-CoV-2 làm tăng quá trình apoptosis của tế bào lympho (tế bào T CD3, CD4 và CD8) và lây nhiễm các tế bào miễn dịch đang lưu hành dẫn đến giảm bạch cầu. Chức năng tế bào T thấp hơn làm giảm sự ức chế của hệ thống miễn dịch bẩm sinh, dẫn đến việc tiết ra một lượng lớn các cytokine gây viêm. Hiện tượng này được gọi là “bão cytokine” [15].

Thuốc điều hòa bạch cầu trung tính, tiêu diệt vi khuẩn trong tế bào và quá trình thực bào đã bị ức chế do bệnh ĐTĐ. Ban đầu, sự chậm trễ trong việc kích hoạt miễn dịch qua trung gian tế bào Th1 và phản ứng tăng viêm muộn thường được quan sát thấy ở bệnh nhân ĐTĐ.

Bệnh nhân COVID-19, số lượng tế bào T CD4 + và CD8 + thấp. Tuy nhiên, tỷ lệ tế bào T CD4 + Th17 gây viêm cao hơn, cùng với nồng độ cytokine tăng cao. Có thể suy đoán rằng bệnh nhân ĐTĐ có thể đã làm suy yếu IFN chống virus. Phản ứng, và sự kích hoạt chậm của Th1 / Th17 có thể làm trội các phản ứng viêm [15].

Một số cytokine được tăng lên trong nhiễm COVID-19. Tại thời điểm ban đầu, các cytokine như TNF, IL-1 và IL-6 hoạt động tích cực hơn ở bệnh nhân ĐTĐ, béo phì. Do đó, các nhà khoa học cho rằng nhiễm SARS-CoV-2 có thể tăng cường phản ứng cytokine ở bệnh nhân ĐTĐ và báo phì, vì vậy làm trầm trọng thêm cơn bão cytokine, gây suy đa cơ quan ở COVID-19.

Tình trạng tiền viêm ban đầu được tìm thấy trong bệnh ĐTĐ và béo phì có thể làm nặng thêm bệnh. Ở bệnh nhân ĐTĐ xảy ra một phần do sự gia tăng của các tế bào miễn dịch bẩm sinh được hoạt hóa trong các mô chuyển hóa dẫn đến sản xuất quá mức các chất trung gian gây viêm, đặc biệt là IL-1β và TNFα, có thể thúc đẩy kháng insulin toàn thân và tổn thương tế bào β [5].

6. VẤN ĐỀ ĐIỀU TRỊ

Metformin

Trong  các  nghiên  cứu  tiền  lâm  sàng, metformin có tác dụng chống viêm và làm giảm các dấu hiệu sinh học tuần hoàn của chứng viêm ở những người mắc bệnh nhân ĐTĐ típ 2. Tuy nhiên, có rất ít thông tin về các hoạt động điều hòa miễn dịch của metformin trong bối cảnh nhiễm COVID-19. Điều thú vị là, ngay cả sau khi hiệu chỉnh việc sử dụng insulin, tuổi, chủng tộc, giới tính, tình trạng béo phì và tình trạng THA, khả năng tử vong ở những bệnh nhân ĐTĐ típ 2 dùng metformin thấp hơn đáng kể so với những người không dùng metformin (OR 0,33; KTC 95% 0,13 – 0,84; p = 0,0210) [11]. Dù sao, metformin nên được sử dụng thận trọng cho những bệnh nhân ngoại trú và nên ngừng sử dụng ở những bệnh nhân bị nhiễm trùng huyết hoặc suy giảm chức năng gan và thận nặng [14]. Nếu bị nôn mửa hoặc uống kém, cũng có thể ngừng dùng metformin. Cần theo dõi lượng glucoza trong máu, liều lượng sulfonylurea và insulin chỉnh theo glucoza máu.

Chất chủ vận GLP-1R

Chất chủ vận GLP-1R có tác dụng chống viêm trên diện rộng ở động vật bị viêm trên thực nghiệm và giảm các dấu hiệu sinh học của tình trạng viêm toàn thân ở bệnh nhân ĐTĐ típ 2 và người béo phì [10]. Bệnh nhân COVID-19 nghiêm trọng nhất là Hội chứng suy hô hấp cấp tính, đặc trưng bởi mức độ cao nhất của các cytokine gây viêm được gọi là “Cytokine Storm” làm tổn thương các tế bào biểu mô phế nang trong phổi, làm bất hoạt chất hoạt động bề mặt phổi, dẫn đến hình thành sự phá vỡ màng hyalin và nhu mô phổi.

Các nghiên cứu tiền lâm sàng khác nhau cho thấy chất chủ vận GLP-1R làm giảm viêm phổi, giảm sản xuất cytokine và bảo tồn chức năng phổi ở chuột nhắt và chuột bị tổn thương phổi thực nghiệm [11] thông qua việc kích thích giãn mạch phổi như peptide natri lợi niệu và tạo điều kiện cho protein hoạt động bề mặt.

Những tác dụng có lợi này có thể xác định các loại thuốc dựa trên GLP-1 là công cụ cơ bản để điều trị bệnh nhân COVID-19 có hoặc không mắc bệnh ĐTĐ. Mặc dù GLP-1 làm hạ glucose máu một cách an toàn ở những bệnh nhân thở máy, nhưng vẫn chưa đủ độ an toàn và kinh nghiệm trong việc sử dụng chất chủ vận GLP-1R bệnh nhân ĐTĐ nhiễm coronavirus [13].

Dipeptidyl Peptidase-4 (DPP4)

Gần đây, mối quan hệ của coronavirus với protein xuyên màng loại II DPP4 của tế bào, còn được gọi là protein phức hợp adenosine deaminase 2 hoặc cụm biệt hóa 26 (CD26), đã tạo ra một mối quan tâm lớn. Cũng giống như ACE-2 là thụ thể của SARS CoV và SARS CoV2, DPP4 hoạt động như thụ thể đối với MERS-CoV. Liệu việc sử dụng các chất ức chế

DPP4 (DPP4i) có thể làm giảm sự xâm nhập của virus MERS-CoV hay không đã thu hút sự quan tâm lớn. Nghiên cứu in vitro, sitagliptin, vildagliptin và saxagliptin không ngăn được coronavirus xâm nhập vào tế bào [12]. Tóm lại, DPP4i dường như làm tăng tình trạng viêm bệnh nhân ĐTĐ típ 2 thông qua cơ chế xúc tác và không xúc tác. Điều quan trọng là phải phác thảo rằng hoạt động enzym của DPP4 gây ra sự phân cắt và có thể ảnh hưởng đến chức năng của một số chemokine, cytokine và các yếu tố tăng trưởng.

Insulin

Insulin có tác dụng chống viêm và làm giảm các dấu hiệu sinh học của chứng viêm ở những bệnh nhân nằm viện, bệnh nặng. Trong số các tác nhân hiện có để điều trị bệnh cấp tính phức tạp do ĐTĐ, insulin là tác nhân được sử dụng rộng rãi nhất ở người bị nhiễm trùng do vi khuẩn hoặc virus và ở những bệnh nhân nặng nằm viện. Hầu hết bệnh nhân nhập viện với COVID-19, đặc biệt là những người bị suy hô hấp, sẽ cần insulin.

Tuy nhiên, có rất ít các nghiên cứu về lợi ích hoặc rủi ro tiềm ẩn của insulin trong bối cảnh nhiễm coronavirus cấp tính. Mặt khác, nên xem xét tầm quan trọng của việc duy trì kiểm soát glucose máu hợp lý. Kết luận này có thể chính xác một cách đáng kể dựa trên bằng chứng lâm sàng khi nghiên cứu 59 bệnh nhân, truyền insulin đạt được mục tiêu glucose máu và cải thiện kết quả ở bệnh nhân COVID-19 [18].

SGLT2-Chất ức chế

Các chất ức chế natri-glucose cotransporter-2 (SGLT2i) được chứng minh là có lợi ích cho tim mạch và thận ngoài tác dụng điều trị bệnh nhân ĐTĐ. Các thí nghiệm lâm sàng cho thấy việc sử dụng kết hợp SGLT2i và ACEI/ARB làm tăng đáng kể biểu hiện ACE2 trong tuyến thượng thận, có thể liên quan chặt chẽ đến việc cải thiện chức năng tim và thận [10]. Tuy nhiên, việc tăng ACE2 có thể gây bất lợi cho những bệnh nhân COVID-19, loại virus này được phát hiện xâm nhập vào các tế bào thông qua thụ thể xâm nhập của ACE2. Bên cạnh đó, SGLT2i gây ra tác dụng lợi tiểu natri cũng có thể làm tăng nguy cơ chấn thương thận cấp tính và ảnh hưởng đến sự ổn

định huyết động trong quá trình nhiễm trùng toàn thân. SGLT2i đã được báo cáo là có thể ngăn chặn sự giải phóng các cytokine tiền viêm khác nhau như IL 6. Bên cạnh đó, SGLT2i dẫn đến sự gia tăng mức ACE-2, dẫn đến sản xuất nhiều hơn angiotensin 17, là một chất làm giãn mạch, chống oxy hóa mạnh, và chống xơ hóa, giúp ngăn ngừa hội chứng suy hô hấp cấp tính (ARDS) và giảm bớt cơn bão cytokine [12].

Hiệp hội Tim mạch Hoa Kỳ, khuyến cáo điều trị bằng liệu pháp hạ huyết áp thông thường, thuốc ƯCMC hoặc ARB [14]. Theo một nghiên cứu gần đây [9], việc sử dụng thuốc ACE bệnh nhân COVID-19, có liên quan giảm tỷ lệ tử vong khi xuất viện (không tìm thấy mối liên quan nhóm thuốc ARB). Mặc dù, có tình trạng ức chế miễn dịch, sự hiện diện hay không có tăng lipid máu hoặc ĐTĐ và chủng tộc.

Statin

Bên cạnh hoạt động làm giảm lipid, statin còn có tác dụng kích thích toàn thân đối với chứng viêm và stress oxy hóa, góp phần có lợi đối với các bệnh tim mạch. Statin điều chỉnh phản ứng miễn dịch ở các mức độ khác nhau, bao gồm sự kết dính và di chuyển của tế bào miễn dịch, trình bày kháng nguyên và sản xuất cytokine. Statin cũng cản trở tín hiệu ACE2. Sau khi xâm nhập ban đầu qua ACE2, SARS-CoV-2 điều chỉnh sự biểu hiện của ACE2, có thể tạo điều kiện thuận lợi cho sự xâm nhập ban đầu của các tế bào miễn dịch bẩm sinh và gây ra sự tích tụ angiotensin II bất hoạt, dẫn đến tổn thương cơ quan. Mặt khác, trong trường hợp nhiễm COVID-19, tác dụng hạ lipid máu của statin có thể điều trị chứng tăng lipid máu liên quan đến việc sử dụng thuốc kháng retrovirus và thuốc ức chế miễn dịch dựa trên protease. Sử dụng đồng thời các chất ức chế CYP3A4 như ritonavir và cobicistat, hiện đang được sử dụng trong COVID-19, có thể làm tăng nguy cơ nhiễm độc cơ và gan. Do đó, bắt đầu với liều statin thấp hơn và theo dõi creatine kinase và transaminase sẽ được khuyến khích [4]. Hơn nữa, vấn đề tương tự cũng xảy ra với azithromycin. Nghiên cứu tương tự đã đề cập ở trên đã chỉ ra statin như một yếu tố bảo vệ độc lập để tồn tại cho đến khi bệnh nhân xuất viện.

Điều trị lâm sàng

Các công trình nghiên cứu đã chứng minh rằng: bệnh nhân ĐTĐ là một yếu tố nguy cơ không những làm tăng nhiễm trùng máu mà còn tiến triển nhanh chóng và tiên lượng xấu của COVID-19. Do đó, bệnh nhân ĐTĐ cần theo dõi sát, tầm quan trọng của quá trình glycosyl hóa, protein đột biến của virus và ACE2r. Cần kiểm soát glucose máu tốt hơn ở những bệnh nhân tăng glucose máu lúc nhập viện. Tiền ĐTĐ và ĐTĐ là những cơ chế tiềm năng để làm chậm sự lây lan của COVID-19 và giảm các triệu chứng cũng như cải thiện kết quả điều trị. Chúng tôi biết rằng kiểm soát glucose máu là điều cần thiết đối với bệnh nhân mắc bệnh COVID-19 và ngay cả bệnh nhân không mắc COVID-19. Tuy nhiên, tăng glucose máu vẫn là một yếu tố tiên lượng mạnh đối với tiên lượng của bệnh nhân COVID-19 nhập viện. Bên cạnh đó, bệnh nhân COVID-19 bị tăng glucose máu, so với bệnh nhân không tăng glucose máu, cho thấy tỷ lệ mắc các bệnh nghiêm trọng tích lũy cao hơn. Ngoài ra, kiểm soát glucose máu tối ưu qua trung gian truyền insulin có thể cải thiện tiên lượng của bệnh nhân COVID-19 nhập viện và bệnh nhân tăng glucose máu [8].

Những bệnh nhân bị nhiễm trùng nhẹ, với liều uống thông thường có thể tiếp tục dùng thuốc hạ glucose máu thông thường. Tuy nhiên, thế giới ngày nay, với một đại dịch chưa từng có, việc điều trị bệnh nhân ĐTĐ gặp nhiều thách thức. Ở hầu hết mọi nơi, mọi người bị giới hạn trong “khu kín”, cơ hội tập thể dục bị hạn chế, và họ không thể đi bộ thường xuyên và đến các phòng tập thể dục hoặc bể bơi. Vì thế, không thể đoán trước được một điều gì có thể xảy ra.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Zhu N, Zhang D, Wang W, Li X, Yang B, Song J, et al. A Novel Coronavirus from Patients with Pneumonia in China, 2019. N Engl J Med (2020) 382(8):727– 33. doi: 10.1056/NEJMoa2001017. PubMed Abstract | CrossRef Full Text | Google Scholar
  2. Li Q, Guan X, Wu P, Wang X, Zhou L, Tong Y, et al. Early Transmission Dynamics in Wuhan, China, of Novel Coronavirus- Infected Pneumonia. N Engl J Med (2020)382(13):1199–207. doi: 10.1056/NEJMoa2001316. PubMed Abstract | CrossRef Full Text | Google Scholar
  3. Saeedi P, Petersohn I, Salpea P, Malanda B, Karuranga S, Unwin N, et al. Global and regional diabetes prevalence estimates for 2019 and projections for 2030 and 2045: Results from the International Diabetes Federation Diabetes Atlas, 9(th) edition. Diabetes Res Clin Pract (2019) 157:107843. doi: 10.1016/j.diabres.2019.107843. PubMed Abstract | CrossRef Full Text | Google Scholar
  4. Singh AK, Gupta R, Misra A. Comorbidities in COVID-19: Outcomes in hypertensive cohort and controversies with renin angiotensin system blockers. Diabetes Metab Syndrome (2020) 14(4):283–7. doi: 10.1016/j.dsx.2020.03.016. CrossRef Full Text | Google Scholar
  5. Yang J, Zheng Y, Gou X, Pu K, Chen Z, Guo Q, et al. Prevalence of comorbidities and its effects in coronavirus disease 2019 patients: A systematic review and meta-analysis. Int J Infect Dis (2020) 94:91–5. doi: 10.1016/j.ijid.2020.03.017. PubMed Abstract | CrossRef Full Text | Google Scholar
  6. Petrilli CM, Jones SA, Yang J, Rajagopalan H, O’Donnell L, Chernyak Y, et al. Factors associated with hospitalization and critical illness among 4,103 patients with COVID-19 disease in New York City. medRxiv (2020) 2020.04.08.20057794. Google Scholar
  7. Spagnolo PA, Manson JE, Joffe H. Sex and Gender Differences in Health: What the COVID- 19 Pandemic Can Teach Us. Ann Internal Med (2020) 173(5):385– 86. doi: 10.7326/M20-1941. CrossRef Full Text | Google Scholar
  8. Kang MJ. Novel genetic cause of idiopathic short stature. Ann Pediatr Endocrinol Metab (2017) 22(3):153–7. doi:10.6065/apem.2017.22.3.153. PubMed Abstract | CrossRef Full Text | Google Scholar
  9. Dennis JM, Mateen BA, Sonabend R, Thomas NJ, Patel KA, Hattersley AT, et al. Type 2 Diabetes and COVID-19-Related Mortality in the Critical Care Setting: A National Cohort Study in England, March-July 2020. Diabetes Care (2021) 44(1):50–7. doi: 10.2337/dc20-1444. PubMed Abstract | CrossRef Full Text | Google Scholar
  10. Simonnet A, Chetboun M, Poissy J, Raverdy V, Noulette J, Duhamel A, et al. High prevalence of obesity in severe acute respiratorysyndromecoronavirus-2 (SARS-CoV-2) requiring invasive mechanical ventilation. Obesity (2020). doi: 10.1002/oby.22831. PubMed Abstract | CrossRef Full Text | Google Scholar
  11. Yang JK, Feng Y, Yuan MY, Yuan SY, Fu HJ, Wu BY, et al. Plasma glucose levels and diabetes are independent predictors for mortality and morbidity in patients with SARS. Diabetic Med (2006) 23(6):623–8. doi: 10.1111/j.1464-5491.2006.01861. PubMed Abstract | CrossRef Full Text | Google Scholar
  12. Wang Z, Du Z, Zhu F. Glycosylated hemoglobin is associated with systemic inflammation, hypercoagulability, and prognosis of COVID-19 patients. Diabetes Res Clin Pract (2020) 164:108214. doi: 10.1016/j.diabres.2020.108214. PubMed Abstract | CrossRef Full Text | Google Scholar
  13. Preliminary Estimates of the Prevalence of Selected Underlying Health Conditions Among Patients with Coronavirus Disease 2019 — United States, February 12– March 28, 2020. (2020). doi: 10.15585/mmwr.mm6913e2. CrossRef Full Text | Google Scholar
  14. Chen Y, Gong X, Wang L, Guo J. Effects of hypertension, diabetes and coronary heart disease on COVID-19 diseases severity: a systematic review and meta- analysis. medRxiv (2020) 14(4):303–10. 2020.03.25.20043133. Google Scholar
  15. Muniyappa R, Gubbi S. COVID-19 pandemic, coronaviruses, and diabetes mellitus. Am J Physiol Endocrinol Metab (2020) 318(5):E736–E41. doi: 10.1152/ajpendo.00124.2020. PubMed Abstract | CrossRef Full Text | Google Scholar
  16. Li F. Receptor recognition mechanisms of coronaviruses: a decade of structural studies. J Virol (2015) 89(4):1954–64. doi: 10.1128/JVI.02615-14. PubMed Abstract | CrossRef Full Text | Google Scholar
  17. Brufsky A. Hyperglycemia, hydroxychloroquine, and the COVID-19 pandemic. J Med Virol (2020) 92(7):770–75. doi: 10.1002/jmv.25887. PubMed Abstract | CrossRef Full Text | Google Scholar
  18. Yang JK, Feng Y, Yuan MY, Yuan SY, Fu HJ, Wu BY, et al. Plasma glucose levels and diabetes are independent predictors for mortality and morbidity in patients with SARS. Diabetes Med (2006) 23:623e8. doi: 10.1111/j.1464- 5491.2006.01861. CrossRef Full Text | Google Scholar
  19. Jiang F, Yang J, Zhang Y, Dong M, Wang S, Zhang Q, et al. Angiotensin-converting enzyme 2 and angiotensin 1-7: novel therapeutic targets. Nat Rev Cardiol (2014) 11(7):413–26. doi: 10.1038/nrcardio.2014.59. PubMed Abstract | CrossRef Full Text | Google Scholar
  20. Yang JK, Lin SS, Ji XJ, Guo LM. Binding of SARS coronavirus to its receptor damages islets and causes acute diabetes. Acta Diabetol (2010) 47(3):193– 9.doi:10.1007/s00592-009-0109-4. PubMed Abstract | CrossRef Full Text | Google Scholar.

About dacdien

Check Also

Tình trạng suy dinh dưỡng cà một số yếu tố liên quan của người bệnh điều trị tại khoa Hồi sức tích cực – Chống độc bệnh viện Đa khoa tỉnh Tiền Giang năm 2022

TÌNH TRẠNG SUY DINH DƯỠNG VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN CỦA NGƯỜI BỆNH …